Câu chuyện cảm động

Để câu truyện thêm rõ ràng, tưởng cũng cần nói thêm là mấy lúc sau nầy, trong mục đích cạnh tranh giảm tiền vé tối đa, các hảng hàng không không còn serve thức ăn trên máy bay cho hành khách economy class ( trừ business class hay first class và những chuyến oversea long haul) mà thay vào đó chỉ bán sandwich, snack dưới hình thức BOB (buy on board) những bao đồ ăn trưa.

                           NHỮNG NGƯỜI LÍNH

Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu  rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần  nhất:
– Các cậu đi tới đâu vậy?
– Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.
Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
– Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$.
Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.      
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
– Xin  bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.      
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
– Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy.  Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu. Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
– Thưa ông dùng gì ạ?  Bò, gà rất hảo hạng.
–  Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB  thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với  ông
Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
– Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
– Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.
Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ..
Đúng là khi ta làm phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi  tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
–  Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.
Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.
Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.  
Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.
Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.
Riêng tôi thì đã làm xong.

Toronto Sept 4,2009
Nguyên Trần

26 TRUYỆN THẬT NGẮN

Tác giả : Trần văn Giang

1- Ước mơ.

Chị mua dùm thằng bé mấy tờ vé số. Sau một hồi chọn lựa, chị hỏi nó: “Nếu cô trúng số con muốn cô mua cho con cái gì?”Nó nhìn chị, xoay qua xoay lại rồi nói: “Cho con xin một chiếc xe đạp. Nếu có xe đi bán xong con chạy tới trường liền, không bị trễ học nữa”. Di di những ngón chân xuống đất, nó hạ giọng: “Cho con thêm đôi dép nữa nghe cô, để con đi học”. Dĩ nhiên là chị không trúng số … Tôi vẫn thấy nó mỗi ngày đi ngang qua nhà tôi với chân trần, đầu không nón…

2- Nghỉ lễ.

Cha nó xuôi ngược buôn bán trên chiếc ghe nhỏ để lo cho nó ăn học. Xong đại học, nó ở lại thành phố.Tết vừa rồi, tiễn nó đi, ông dặn: “Con đi làm, ít về. Cha mẹ nhớ lắm. Nhưng ráng… đến dịp lễ rảnh con về thăm cha mẹ.” Nó hứa. Lễ đến, ông hớn hở chờ nó về. Nó điện thoại bảo nó không về được vì sinh nhật bạn gái. Nghe xong, ông trầm ngâm, lát sau mới nói với mẹ nó: “Vậy là tết thằng nhỏ nó mới về. Còn đến bốn tháng nữa lựng…!”

3- Ngày cưới của cha.

Anh hai làm ở thành phố, tổ chức đám cưới luôn trên ấy. Ba vượt hơn 200 cây số đường, quành quả các thứ lo đám cưới cho anh. Anh kế, rồi đến tôi đám cưới, ba lo lắng đến từng chi tiết, cả đến cách lạy, cách đi đứng như thế nào cho phải đạo… Mẹ mất sớm, ba sống cô đơn hàng chục năm. Khi các con đã yên bề cả, ba đi thêm bước nữa, ngày cưới của ba, cả ba anh em tôi đều viện cớ vắng mặt..

.4- Lòng tin.

Xe ngừng… – Mận ngọt đây..! – Bao nhiêu tiền bịch mận đó? – Dạ 2000. – Hổng có tiền lẻ! – Để con đổi cho! Cái bóng nhỏ lao đi. Năm phút, mười phút… – Trời! Đồ ranh! Nó cầm 5000 của tui đi luôn rồi! – Ai mà tin cái lũ đó chứ! – Bà tin người quá! …Xe sắp lăn bánh… Cái bóng nhỏ hớt hải: – Dì ơi! Con gửi ba ngàn. Đợi hoài người ta mới đổi cho.

5- Lời hứa.

Tết, anh chở con đi chơi. Về nhà, thằng bé khoe ầm với lũ bạn cùng xóm. Trong đám trẻ có thằng Linh, nhà nghèo, lặng lẽ nghe với ánh mắt thèm thuồng. Thấy tội, anh nói với nó: “Nếu con ngoan, tết năm sau chú sẽ chở con đi chơi.”Mắt thằng Linh sáng rỡ. Ngày lại ngày. Cuộc đời lại lặng lẽ trôi theo dòng thời gian. Thoắt mà đã hết năm. Lại tết. Đang ngồi cụng vài ly với đám bạn thì thằng Linh cứ thập thò. Vẫy tay đuổi, nó đi được một chốc rồi lại lượn lờ. Cáu tiết, anh quát nó. Thằng Linh oà khóc nức nở. Tiếng nó nói lẫn trong tiếng nấc: “Chú hứa chở con đi chơi… cả năm qua con ngoan… không hư một lần nào…”

6- Ba.

Xưa, nội nghèo, Ba đi ở cho ông bá hộ, chăn trâu để chú được đi học. Thành tài, chú cưới vợ, ra riêng. Ngày hỏi vợ cho thằng Hai, chú mời mấy người cùng cơ quan. Ai cũng “com-lê,” “cà-ra-vát.” Chú bảo: “Anh Hai đau bao tử, ở nhà nghỉ cho khỏe.”Ba ừ, im lặng vác cày ra đồng. Mồ hôi đổ đầy người. Cũng những giọt mồ hôi ấy, xưa mặn nồng biết chừng nào, mà bây giờ, sao nghe chát cả bờ môi.

7- Khoe

Ngày xưa, khi có ai hỏi con: “Bố làm nghề gì?” Bố thấy con không vui và không bao giờ chịu trả lời là bố làm nghề thợ hồ. Bố cố gắng làm việc nhiều hơn để nuôi con ăn học và mong sau này con có được một nghề mà mọi người nể trọng trong xã hội. Con thành đạt rồi lấy chồng. Mỗi lần khách đến chơi, câu đầu tiên bố thường nghe con khoe là: “Nhà em làm luật sư nên lúc nào cũng bận.” Bố buồn, chỉ ao ước được một lần nghe con khoe về nghề của bố …

8- Nhạt

Người đàn bà vội vã ra đi vào một chiều mưa tầm tã. Ngày ngày, chỉ còn lại người đàn ông lầm lũi bên xe mì gõ đầu hẻm. Chẳng hiểu vì lý do gì, khách đến ăn ngày một thưa dần rồi vắng hẳn. … Ngày nọ, có người đàn bà sang trọng tìm về con hẻm xưa. Không ai còn nhận ra bà. Người đàn ông và xe mì gõ không còn ở đó nữa. Người ta bảo kể từ cái dạo vợ bỏ đi, mì ông nấu không còn ngon như trước và quá nhạt. Nhạt nên người ta không ăn của ông nữa…

9- Anh Hai

Năm 18 tuổi, anh quyết định nghỉ học đi phụ hồ. Bố Mẹ giận dữ, mắng anh: “Sanh ra… Giờ cãi lời bố mẹ… Phải chi nó ngoan, siêng học như bé Út…” Anh lặng thinh không nói năng gì. Bố mẹ mắng mãi rồi cũng thôi. Anh đã quyết thế! Ngày bé Út vào Đại Học, phải xa nhà, lên thành phố ở trọ. Anh tự ý bán đi con bò sữa, gia tài duy nhất của gia đình, gom tiền đưa cho bé Út.Biết chuyện, bố thở dài, mẹ lặng lẽ, bé Út khóc thút thít… anh cười, “Út ráng học ngoan nghen…”.Miệt mài 4 năm đại học, Út tốt nghiệp loại giỏi, được nhận ngay vào công ty nước ngoài, lương khá cao… Út hớn hở đón xe về quê… Vừa bước vào nhà, Út sững người trước tấm ảnh của anh trên bàn thờ nghi ngút khói…Mẹ khóc: “Tháng trước, nó bị tai nạn khi đang phụ hồ… lúc hấp hối, biết con đang thi tốt nghiệp, nó dặn đừng nói con biết…”

10- Đưa đón

Nội từ quê vào thăm, mang quà quê vào cho cháu, nào là bánh đa, gạo nếp, có cả chục trái dừa khô. Thấy nội lỉnh kỉnh vất vả, con trách bố: “Sao bố không đi đón nội.” Bố bảo: “Bận quá.” Ngoại từ nước ngoài về thăm quê. Các cậu, dì thuê hẳn một xe ô-tô đi đón. Bố cũng đóng cửa hàng nghỉ buôn bán vài hôm, để cùng đi đón ngọai. Bố bảo con: “Ai cũng có mặt, bố không đi ngoại trách…”

11- Đợi

“Mẹ ơi, sao bà hay ngồi ngoài cửa chiều chiều thế mẹ? Bà lãng mạn quá mẹ nhỉ! ”Nó cười tít mắt, tưởng tượng vu vơ ở chân trời nào chả rõ. Mẹ chẳng nói gì, chỉ lặng im, lâu lâu lại ngẩng lên nhìn bà, mắt mẹ thoáng buồn, nó chẳng hiểu vì đâu… Sau đó nó biết ông nó khi xưa đi chiến trường không về, bà thì luôn bảo ông “chưa” về nên hay ra ngồi ngoài ngõ đợi. Có lúc nó dỗi bà, bảo bà không chơi với nó mà cứ ngồi đợi ông “Ông không về đâu, ông chết rồi!” Nó hét lên giận dữ, khóc thảm thiết. Bà vuốt má nó nựng nịu, rồi cõng nó vào trong. Mãi sau này, khi bà mất đi, mẹ kể nó nghe rằng: Bà muốn đợi ông về, dẫn hồn ông đi kẻo lạc. Bà sợ năm tháng dài, mấy con ngõ trở thành xa lạ. Nó lặng im thẫn thờ, mắt thả về miên man… thấy nhớ bà vô hạn… Rồi chiều chiều, cũng tự khi nào không biết, nó ngồi trước hiên nhà, đợi bà đi ngang qua…

12- Xa xứ

Em tôi học đến kiệt sức để có một suất du học. Thư đầu viết: “Ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh bỏ xa lắc nước mình”. Cuối năm viết: “Mùa đông bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm”. Mùa đông năm sau viết: “Em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố xá bụi bặm, ồn ào, nhớ bến chợ xôn xao lầy lội… Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người châu Á, để hỏi coi có phải người Việt không…”

13- Bàn tay

Hai đứa cùng trọ học xa nhà, thân nhau. Lần vào quán nước, sợ tôi không đủ tiền trả, em lòn tay xuống gầm bàn đưa tôi ít tiền. Vô tình đụng tay em… Mềm mại.Ra trường, hai đứa lấy nhau. Sống chung, em hay than phiền về việc xài phí của tôi. Bận nọ tiền lương vơi quá nửa đem về đưa em… Chợt nhận ra tay em có nhiều vết chai. Tự trách, mấy lâu nay sao mình quá vô tình.

14- Ăn cơm

Thằng Tèo ngồi tiu nghỉu. Tựa lưng vào cây trứng cá bên hông nhà, thỉnh thoảng nó giơ tay gạt nước mắt. Không biết chuyện gì? Cả buổi sáng nay ba má nó liên hồi ẩu đả. Bỏ ông táo lạnh tanh. Giờ mỗi người mỗi góc. Rồi cuộc chiến lại tiếp tục. Từ võ tay ba chuyển sang võ miệng. Bỗng má nó lớn giọng: “Ông ăn chả, tôi ăn nem. Mặc xác ông!”Đến đây, vì cái bao tử thúc giục, thằng Tèo liền tham chiến: “Con không thèm ăn mấy thứ đó, con chỉ muốn ăn cơm thôi!”.

15- Cha tôi

Mẹ bỏ đi theo người khác. Cha ở vậy nuôi chúng tôi. Hơn 20 năm. Tôi và anh Hai đều có gia đình. Ngoài 60, bỗng cha tôi dường như trẻ lại. Ông năng chải chuốt, đi lại và xài tiền nhiều hơn. Chúng tôi nghĩ ông có nhân tình và đối xử có phần nghi ngại. Ông vẫn không nói. Tôi tìm đến bệnh viện, quyết định cho người tình của cha tôi một trận. Chợt tôi lặng người đi vì người cha đang chăm sóc chính là mẹ. Thấy tôi, ông gượng nói: “Ba sợ các con còn giận mẹ…”

16- Mồ côi

Đêm đông, nằm cạnh bố, cu Hải co ro thì thầm: “Giá như mẹ đừng ‘đi xa,’ thì giờ này con được nằm giữa, ấm biết mấy. Chứ chỉ có hai bố con mình, ai cũng lạnh.”Bố cu Hải vỗ về con, rồi nói: “Con đừng lo, mẹ xa rồi, có dì thay mẹ chăm con.” Cu Hải không hiểu nhưng cũng thấy mừng, vì nhà có thêm người đỡ vắng lạnh.Mùa đông sau, Hải co ro nằm một mình lại nghĩ: “Giá như đừng có dì thì bây giờ mình cũng đỡ lạnh một bên…”

17- Lát nữa về.

Anh chị lấy nhau được 5 năm. Gia đình bất hòa nhưng có đứa con cũng đỡ phần nào. Ngày ngày, khi chị đi làm, đứa con nhỏ ba tuổi thường khóc đòi chị. Chị dỗ dành : “Nín đi con! Lát mẹ về.” Năm sau, anh chị ly dị. Tòa cho anh nuôi đứa bé. Chị ôm nó khóc. Nó nhìn chị, ngây thơ : “Nín đi mẹ! Con đi chơi với ba. Lát con về…”

18- Cần thiết.

Ngày cô theo gia đình định cư ở nước ngoài, Thầy buồn nhiều vì cảm thấy trống vắng, cô đơn. Nhiều năm trôi qua, Thầy vẫn ngày hai buổi ăn cơm tiệm, một mình một bóng đi về. Đã bao lần cô gợi ý đón Thầy sang, nhưng Thầy nhất quyết từ chối. Cuộc đời thầy gắn bó với trường lớp đã bao năm, làm sao nỡ dứt bỏ.Một lần gọi điện thoại về thăm, cô dè dặt hỏi: “Anh có cần gì cứ nói, em sẽ gởi về liền.” Cười buồn, Thầy ôn tồn đáp: “Anh chỉ cần em.”

19- Xót xa.

Tần tảo dành dụm những đồng tiền lẻ từ mớ rau, củ khoai, con cá con tôm bắt được để gởi lên cho chị Hai ăn học. Tốt nghiệp Đại học Văn hóa – Nghệ thuật – Du lịch, chị Hai ở luôn trên thành phố làm Phó giám đốc cho một công ty Đầu tư và phát triển Du lịch tại Sài Gòn. Mãi đến hôm nay, dễ chừng gần ba năm, chị Hai mới về. Cả nhà khôn xiết vui mừng. Má lật đật chèo xuồng đến chợ nổi mua đồ về làm bữa cơm thịnh soạn: “Tội nghiệp chị Hai tụi bay, hồi giờ có được bữa ăn nào đàng hoàng, tử tế đâu?” Đang ăn, chị Hai bỗng giật mình, lấy đũa khều một sợi tóc từ trong đĩa lòng xào ra: “Ai làm bê bối và cẩu thả thế này? Kiểu này ở nhà hàng họ đã đổ vào thùng nước cơm! Khách du lịch mà biết, chỉ có nước đóng cửa dẹp tiệm! Sạt nghiệp là cái chắc!” Nói xong, chị Hai đứng dậy, nhanh chân bước lên nhà trên. Từ nãy giờ, má ngồi đó, im lìm như tượng đá. Thằng Út cầm sợi tóc lên săm soi một lúc rồi la to lên, giọng còn ngọng nghịu: “Sợi tóc bạc hơn một nửa rồi má ơi!…”

20- Đau Lòng.

Mẹ làm gần nhà, về nhà ăn, nghỉ trưa.Mẹ giấu Ba, thường đem ông Gia Nã Đại về mẹ hầu cơm trưa.Ba biết được. Cảnh cáo Mẹ. Một hôm Mẹ bảo Ba rằng Mẹ đã mua vé máy bay đưa các con đi Gia Nã Đại thăm ông bà ngoại. Quả thực Mẹ đưa các con về nhà ông bà ngoại ở, còn Mẹ đi đến nhà ông Gia Nã Đại đó (ông ta đã về nuớc).Một hôm, quá nửa đêm, 3 giờ sáng cả gia nhà đang ngủ ngon, bỗng chuông điện thoại reo lên, Mẹ tung mền vội chạy tranh “phone” với con gái. Mẹ bảo “Phone” của Mẹ, của bạn mẹ ở sở. Người đàn ông nào ở sở gọi mẹ 3 giờ sáng? Ba không làm ồn ào. Mẹ năn nỉ Ba: “Đừng gọi cho ông bà ngoại. Ông ngoại sẽ bị đứng tim khi nghe tin này.” Ba không gọi ông bà ngoại. Ba cũng không gọi cảnh sát, sợ ồn ào thì láng giềng coi nhà ta ra gì! Nếu gọi đến sở thì cả hai, mẹ và ông Gia Nã Đại, đều bị đuổi việc. Ba đành nín thinh vì danh giá của gia đình, và vì các con còn đang đi học. Ba bị bịnh tim mạch, cao máu, tiểu đường chểnh mảng công việc nhà… Mẹ đi rêu rao với anh chị em, bà con. Rồi Mẹ bỏ đi. Mẹ gọi về đòi ly dị vì lý do Ba không còn dọn dẹp nhà cửa tốt như xưa…

21- Nó.

Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ và nhưng hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm. Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành: “Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây mà!” Vậy là nó nín. Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo: “Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây mà!” Rồi lấy tay đặt trên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại còn ôm nó khóc to hơn.

22- Vòng cẩm thạch.

Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ đều tìm cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường… Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: “Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui.” Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.

23- Quà sinh nhật.

Trong năm đứa con của má, chị nghèo nhất. Chồng mất sớm, con đang tuổi ăn học. Gần tới lễ mừng thọ 70 tuổi của má, cả nhà họp bàn xem nên chọn nhà hàng nào, bao nhiêu bàn, mời bao nhiêu người. Chị lặng lẽ đến bên má: “Má ơi, má thèm gì, để con nấu má ăn?” Chưa tan tiệc, Má xin phép về sớm vì mệt. Ai cũng chặc lưỡi: “Sao má chẳng ăn gì?” Về nhà, mọi người tìm má. Dưới bếp, má đang ăn cơm với tô canh chua lá me và dĩa cá bống kho tiêu chị mang đến…

24- Khóc.

Vừa sinh ra đã vào trại mồ côi, trừ tiếng khóc chào đời, chồng tôi không hề khóc thêm lần nào nữa. Năm 20 tuổi, qua nhiều khó khăn anh tìm được mẹ, nhưng vì danh giá gia đình và hạnh phúc hiện tại, một lần nữa bà đành chối bỏ con. Anh ngạo nghễ ra đi, không rơi một giọt lệ. Hôm nay 40 tuổi, đọc tin mẹ đăng báo tìm con, anh chợt khóc. Hỏi tại sao khóc, anh nói: “Tội nghiệp mẹ. 40 năm qua chắc mẹ còn khổ tâm hơn anh.”

25- Cua rang muối.

 Khi xưa nhà còn nghèo, mẹ hay mua cua đồng giả làm cua rang muối. Cua đồng cứng nhưng mẹ khéo tay chiên giòn, đủ gia vị nên thật ngon. Thấy các con tranh nhau ăn, mẹ nhường. Các con hỏi, mẹ bảo: “Răng yếu.”Giờ, các con đã lớn, nhà khá hơn, chúng mua cua biển gạch son về rang muối mời mẹ. Các con nói vui: “Cua rang muối thật đó mẹ.” Rồi chúng ăn rất ngon. Riêng mẹ không hề gắp. Các con hỏi, mẹ cười móm mém: “Còn răng đâu mà ăn?!”

26- Người yêu và mẹ.

Tốt nghiệp đại học, ở lại thành phố đi làm. Tháng rồi, mẹ vào thăm. Mừng và thương. Mẹ khen: “Bạn gái con xinh lắm.” Cuối tháng, lãnh lương. Dẫn người thương đi “shopping.” Em bảo: “Mỹ phẩm của hãng này là tốt nhất. Những loại rẻ tiền khác đều không nên dùng vì có hại cho da; giống mẹ anh đó, da mặt mẹ bị nám hết anh thấy không…”Chợt giật mình. Mẹ cả đời lam lũ, nắng gió với cái ăn cái mặc, nào đã biết phấn son màu gì…

XE ĐÒ HOÀNG

Wayne Nguyen

Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng, sinh năm 1975, qua Mỹ định cư năm 1992. Từ năm 2000-2005 hành nghề dược sĩ (Consultant Pharmacist), sau đó trở lại học và tốt nghiệp Y Khoa. Nghề nghiệp hiện tại là Physician tại thành ph Chicago, tiểu bang Illinois.
* * *
    “Cuộc đời của chúng ta giống như một chuyến xe đò, mỗi chuyến xe đón những hành khách khác nhau, tuy nhiên hành khách nào cũng mong muốn chuyến xe được an toàn xa lộ, để tất cả hành khách được về với gia đình, nơi đó lúc nào cũng bình an và hạnh phúc…
Tôi là đứa con Út sinh ra trong một gia đình gồm mười hai người. Vài tháng sau khi tôi ra đời, VNCH không còn nữa, và Việt Nam rơi vào tay của chế độ XHCN.
Trước năm 1975, ba tôi làm Trưởng Ty Kinh Tế tỉnh Ngãi, xét về địa lý tỉnh Quảng Ngãi nằm giữa hai tỉnh Quảng Nam và Bình Đình. Sau 1975, ba anh chị em lớn của tôi cuối cùng cũng “tỵ nạn” ở Hoa Kỳ sau những chuyến vượt biển đầy gian khổ và nguy hiểm, một người chị lớn của tôi đã mất tích trong một lần vượt biển vào năm 1989. Cuối cùng, gia đình tôi đặt chân đến LAX vào tháng 2, năm 1992 theo chương trình ra đi có trật tự gọi chung là “ODP”
Thấm thoát mà đã trên 41 năm, sau ngày 30 tháng Tư 1975 và 23 năm định cư ở Hoa Kỳ. Tôi giật mình tỉnh dậy sau năm phút lim dim trên “Xe Đò Hoàng” từ Rosemead lên San Jose, California.
   Vào những dịp lễ thì “Xe Đò Hoàng” lúc nào cũng đông người, ngồi sát tôi là một chị khoảng 55 tuổi gốc người Cần Thơ, nên tôi tạm gọi là chị Tư Cần Thơ. Ngồi sát hàng ghế sát bên kia là một chị khoảng 60 tuổi, đi du lịch từ Việt Nam mới qua làm nghề mua bán Bất Động Sản ở Sài Gòn, tôi không nhớ tên nên gọi là bà Hai Địa Ốc.
   ”Xe Đò Hoàng” bây giờ có lẽ khác với “Xe Đò Hoàng của 10 năm về trước”, không những là người Việt Nam đi xe đò, mà ngay cả những người từ nơi khác cũng biết về “thương hiệu” của xe đò. Phía trước hàng ghế tôi ngồi có hai vợ chồng người Singapore. Phía sau có hai vợ chồng người Pháp. Xe chạy đến phố Tàu hay thường gọi là Chinatown, ghé vào parking sát bên tiệm Phở Hòa để tiếp tục đón thêm những hành khách khác.
Bước lên xe lần này là một anh thanh niên Việt Nam vào khoảng 25 tuổi đi du học, riêng cậu thanh niên này thì tôi nhớ cậu ta tên là “Kiên”, những người sinh sau năm 1975 và gia đình có máu cách mạng hay bộ đội thì lúc nào cũng đặc tên cho con với những cái tên như “Nam”, “Bắc”, “Thắng”, “Lợi”, “Kiên” và “Trực”. Măc dù tên của cậu ta là “Kiên”, tôi vẫn thích cái cái nick name tôi đặt cho cậu ta là “Cậu Út Du Học”.
Kế đến là một người trung niên vào khoảng 60 tuổi với đôi nạng gỗ, nhìn mang máng giống anh Việt Dzũng, khuôn mặt đẹp trai, tôi cũng không nhớ tên anh ta, nên đành đặc tên anh là “Anh Năm đẹp trai”. Hàng ghế đầu tiên trên xe có bảng ghi dành cho “disabled” (người tàn tật), tuy nhiên anh không ngồi hàng ghế này và cho rằng còn nhiều người già hơn, tàn tật nặng hơn mình, nên anh quyết định ngồi ở hàng ghế cách tôi khoảng 2-3 cái ghế gì đó.
Cuối cùng là một thanh niên người Nigerian từ bên Châu Phi, có bạn là người Việt Nam giới thiệu về Xe Đò Hoàng, đi một lần cho biết.
Như vậy, chung quanh tôi nào là “Chị Tư Cần Thơ”, “bà Hai Địa Ốc”, “Cậu Út Du Học”, “Anh Năm đẹp trai”, “Hai vợ chồng người Singapore”, “Hai vợ chồng người Pháp”, và anh chàng người Nigerian. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là đây: Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Tây, Tàu, Âu, Mỹ gì chúng ta điều có đủ.
    Xe chuẩn bị rời khỏi đường Broadway hướng về freeway 5 North thì bác tài xế xe bắt đầu phát cho mỗi người một ổ bánh mì Lee’s sandwiches hoặc là một bịch xôi, một chai nước lọc hiệu “Kirkland” mua từ Costco, một tờ báo “Người Việt”, một tờ báo “Việt Báo” nếu người nào muốn đọc báo bằng tiếng Việt.
Hành khách có sự lựa chọn một là ổ bánh mì Lee’s sandwiches hoặc là bịch xôi, chứ không được cả hai. Buổi sáng, cảm thấy còn no, nên tôi đem ổ bánh mì Lee’s sandwiches vừa được phát bỏ vào bịch ni-lon ở sát bên, trước khi lên xe, tôi đã chuẩn bị mua xôi, bánh mì, và vài trái táo ở một tiệm “food to go” sát thành phố Rosemead, tất cả cho vào ba lô để ở dưới chỗ ngồi dành cho hành khách.
Và câu chuyện bắc đầu từ đây.

    Sau khi mỗi người đã có trong tay ổ bánh mì hoặc bịch xôi, “Cậu Út Du Học” xin thêm bịch xôi, tuy nhiên bánh mì thì còn nhưng xôi thì hết. “Cậu Út Du Học” đòi cho bằng được bịch xôi, nếu không có, cậu bắt buộc xe phải ngừng lại hoặc trả tiền refund $40 dollars cho cậu. Cậu Út bảo “như thế là không chuẩn nhé”, “khách hàng là thượng đế nhé”, “khách hàng muốn ăn xôi là phải có xôi nhé”. Miệng thì lẩm bẩm chửi bác tài xế “Đúng là đồ Việt Kiều lưu vong, bị thất nghiệp nên đi lái tài xế cho xe đò”.
Trong cái ba lô của tôi còn có một bịch xôi gà nóng, tôi đưa nửa bịch xôi gà cho Cậu Út Du Học và nhắc nhở rằng “rồi mọi việc sẽ đâu vào đó, cố gắng ăn đỡ xôi gà cho ấm bụng”. Tôi bảo cậu ta, khi xe đến thành phố Bakersfield, xe sẽ dừng lại break 15 phút, ở chỗ này có tiệm Subway, McDonald và ngay cả tiệm Chinese Food tha hồ mà ăn.
Tôi được biết, Cậu Út Du Học này xuất thân từ gia đình ở tỉnh Thanh Hóa. Sau “Giải Phóng”, gia đình Cậu Út Du Học vào nam, và tịch thu được hai căn nhà trên đường “Đồng Khởi” (đường Tự Do trước năm 1975), mà người Cộng Sản gọi là “tiếp thu”. Xin thưa với Cậu Út Du Học, chính là từ hai căn nhà trên con đường Tự Do chiếm đoạt được mà cha mẹ cậu mới có tiền trang trải cho cậu đi du học ở đất nước Hoa Kỳ. Cậu Út à, bác tài xế xe không bị thất nghiệp, nếu như bị “thất nghiệp” thì nghỉ ở nhà, chứ đâu có đi lái xe, “thất nghiệp” tức là không có việc làm. Mà không phải ai muốn lái xe khách 40 chỗ ngồi cũng được! Phải trải qua nhiều kỳ thi lý thuyết và thực hành để được cấp cho bằng lái xe 40 chỗ ngồi Cậu Út ạ!
    Xin thưa với Cậu Út Du Học, chúng tôi là những người “lưu vong” đúng vậy, và chúng tôi cố gắng xây dựng một Little Sài Gòn vững mạnh phi cộng sản. Nhờ có kinh tế vững mạnh hàng năm, chúng tôi cố gắng góp tiền bạc giúp đỡ cho đồng bào trong nước, nên lúc nào truyền thông trong nước gọi là “Việt kiều là khúc ruột ngàn dặm thương yêu của tổ quốc Việt Nam”. Bởi vì chúng tôi “lưu vong”, nên chúng tôi cố gắng góp phần không ít vào khu công nghệ “Silicon Valley” gồm những thành phố San Jose, Cupertino, Palo Alto… Cupertino chính là nơi của công ty số một thế giới “Apples” (Cậu Út gọi là Quả táo, thay vì người miền nam gọi là Trái Táo. Nhờ có “Quả Táo” này mà Cậu Út mới có được Iphone, Ipad để tha hồ lướt web ở bất cứ nơi nào.

    Xe chạy vừa pass qua junction xa lộ I-5 và I-118. Tôi nhìn qua phía bên trái: Chị Tư Cần Thơ vẫn còn thức, tuy nhiên người chị bủn rủn và mệt mỏi, Chị Tư Cần Thơ thuộc loại người tròn trịa, nhìn qua tôi cũng biết “bà này chắc bị tiểu đường rồi” và chợt nhớ đến hai câu thơ “Ngày xưa bụng bự thì sang, ngày nay bụng bự viêm gan và tiểu đường”.
Chị Tư Cần Thơ đón xe đò lên San Jose để thăm đứa con gái duy nhất của chị vừa hạ sinh được đứa con đầu lòng. Tôi biết rằng Chị Tư Cần Thơ bị “hypoglycemia” (lượng đường thấp) có lẽ lúc tối chị chích glargine insulin nhiều quá, nên bây giờ bị phản ứng phụ của insulin. Tôi nhanh chóng đưa cho chị nửa nắm xôi gà còn lại lúc sáng, chị ăn được một chút và người chị tỉnh hẳn ra. Ăn xong Chị Tư Cần Thơ nói “Em là bác sĩ hay sao nhìn qua là biết chị bị tiểu đường rồi”. Tôi chỉ cười và không nói gì, chị tiếp tục im lặng, chắc có lẽ chị “Có những niềm riêng… có điên cũng không dám nói”, “niềm riêng” của chị là gì đây? Nhìn cuốn sách “Viết Về Nước Mỹ lần thứ 14” của tôi ở trước mặt, sau khi đọc một vài trang đầu tiên, chị bắt đầu kể về cuộc đời của chị.
Chị Tư Cần Thơ đi vượt biên năm 1987, tàu xuất phát tại bến Ninh Kiều. Cha mẹ chị, đứa em gái chị, và chồng của chị chết trong chuyến đi ấy. Cả con tàu còn vỏn vẹn 18 người sống xót trong đó có hai mẹ con chị. Nhìn qua cách cư xử và cách nói chuyện của chị, tôi có thể biết rằng chị là một người biết chia sẻ, biết chấp nhận quá khứ và hài lòng với hiện tại. Ngay cả bà con nội ngoại của chị không còn ai, phần lớn đã bỏ mình ngoài đại dương trên đường tìm tự do. Bây giờ chị còn lại đứa con gái duy nhất và đứa cháu ngoại mới sinh được một tuần rưỡi.
Quá khứ thì quá đau buồn, tương lai thì chưa biết, thôi cố gắng vui vẻ với hiện tại mình có được. Khi nói đến đứa cháu ngoại vừa mới sinh ở Kaiser Permante thành phố San Jose, Chị Tư Cần Thơ vui lắm, cho tôi coi hết hình này đến hình khác. Người Chị Tư Cần Thơ vừa tròn, vừa mập, vừa lùn, nhìn giống “trẻ em đi lạc”, tuy vậy từ Los Angeles lên San Jose, chị đem theo hai thùng sách viết bằng tiếng Anh “How to be a good mommy” làm quà cho đứa con gái.
Chị nói với tôi rằng, bây giờ chị cố gắng cười thật nhiều, bởi vì đối với chị “cuộc đời không còn gì để mất nữa”, cứ thế vui vẻ mà sống. Xin thưa là em rất nể chị, chị là một người vượt qua số phận trớ trêu, những gian khổ của cuộc sống, một thân một mình nuôi con, để bây giờ chị có đứa con gái ra trường làm “Registered Nurse”. Chị dẹp bỏ những đau buồn và bất hạnh trong cuộc đời, và cố gắng tận hưởng những gì hạnh phúc niềm vui ông trời đã ban cho chị.
Người bạn thân của tôi làm nghề bác sĩ tâm lý psychologist Dr. Hạnh Trương ở miền nam California thường nói về cuộc đời rằng, tất cả những gì trên đời này điều là “Trời cho”, nếu không được thì nói ngược lại là “Trò chơi”. Một người bạn bác sĩ tâm thần psychiatrist Dr. Gandi ở bệnh viện University of Illinois at Chicago thường nói “Life is joke, take it easy”. Chị Tư Cần Thơ thì nói “nói thì dễ, làm thì khó lắm”, tuy nhiên “mình phải làm”, chị cố gắng làm nhiều viêc để quên đi quá khứ đau buồn. Và ước mơ của chị là được làm bà ngoại đi đây đi đó du lịch cùng với con cháu của chị.

    Hàng ghế bên kia Bà Hai Địa Ốc đang mải mê nói chuyện với cô con gái qua hệ thống viber của Iphone, và lúc nào cũng căn dặn là phải “nhanh tay lẹ mắt” để kiếm được nhiều tiền, nào là phải chạy tiền và đút lót như thế nào cho Sở Tài Nguyên Môi Trường, rồi đến công an quận, làm sao cho trót lọt.
Sài Gòn thời mở cửa cho những người có cơ hội muốn “chụp giật” trong ngành địa ốc, danh từ chính xác ở Việt Nam bây giờ thường gọi là “Kinh Doanh Bất Động Sản” (KDBDS). Ở Việt Nam, nơi mà “quyền sử dụng đất” khác với “quyền sở hữu đất”, nơi mà giấy tờ nhà đất được gọi là “sổ hồng”, “sổ đỏ”, nơi mà luật lệ thay đổi qua nhiều tầng lớp nào là luật lệ của nhà nước, rồi đến luật lệ thành phố, luật lệ của tỉnh, của quận và huyện, hay nói tóm lại là luật lệ của XHCN.
    Tôi rời xa Sài Gòn năm tôi 16 tuổi, nên không hiểu mấy về từ ngữ “luật lệ”, Bà Hai Địa Ốc giải thích rằng “luật là có trong sách vở” “lệ tức là hối lộ, đút lót”. Thì ra là vậy. Người đi, người ở, người về, người thì về Việt Nam làm ăn, người thì bán nhà để ra đi nước ngoài định cư. Bà Hai Địa Ốc cũng chả cần để ý đến những khu vực nào người dân nghèo sắp bị giải tỏa, nhưng lúc nào cũng căn dặn đám công an cố gắng ém giá đền bù cho dân càng ít thì càng tốt. Bà Hai Địa Ốc lúc nào cũng chê về nước Mỹ trên phone khi nói chuyện với cô con gái, nào là “Xe Đò Hoàng” không có hàng ghế dành cho “thương gia.” Chắc bà thuộc loại người “thượng lưu” nên chỗ ngồi cũng phải tương xứng với cái “thương hiệu” của bà. Bà Hai Địa Ốc còn nói rằng bác tài xế lái xe đáng lẽ phải lễ phép đưa hai tay khi phân phát ổ bánh mì cho bà. Bà Hai Địa Ốc chê đồ ăn ở khu Little Sài Gòn Westminster. Bà cũng nhắc tới hai con chó cưng của bà vừa mới được một đại gia đi du lịch từ Phú Quốc về tặng cho. Cặp chó quý Phú Quốc này được những người osin chăm sóc hết sức chu đáo trong nhà của bà ở khu Phú Mỹ Hưng.
Xin thưa với Bà Hai Địa Ốc rằng, đồ ăn ở nơi đây không ngon bằng đồ ăn của bà ở Phú Mỹ Hưng, nhưng bảo đảm an toàn vệ sinh bởi vì nơi đây thức ăn được kiểm tra bởi Department of Public Health, mỗi nhà hàng điều được đánh giá rating A,B,C,D thích hợp. Luật lệ ở những nước tư bản lúc nào cũng bảo vệ người dân, chứ không phải như thực thẩm ở Việt Nam bị đầu độc bởi Trung Quốc, đó là chưa kể đến hàng loạt nhiều loại cá bị chết dọc bờ biển Miền Trung kéo dài từ bờ biển Quảng Bình đến tận bãi biển Đà Nẵng, khi những người thợ lặn lặn xuống thăm dò sau đó bị ngứa và chết đi, như vậy chất độc đó nặng như thế nào. Xin mời Bà Hai đọc bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” viết bởi nhà thơ Trần Thị Lam. Sau khi đọc bài thơ này tôi không biết nói gì hơn, chỉ đành nói tóm gọn là “Đất nước mình bậy quá phải không Bà Hai Địa Ốc”.
Bà Hai Địa Ốc chê nước Mỹ nhưng lại muốn ở lại nước Mỹ. Chuyến đi lên San Jose kỳ này với mục đích làm hôn nhân giả với một kỹ sư người Mỹ ở San Jose, và ước mơ của bà là “hạ cánh an toàn” sau khi tiền vô đầy túi.
Nhìn những cánh đồng strawberry, pumkin ở thành phố Lamont trên con đường từ Bakersfield đến San Jose, tôi chợt nhớ đến những chuyến xe đò từ miền Trung vào Sài Gòn hoặc là từ Sài Gòn xuống miền Tây. đã 41 năm rồi sau ngày 30/4 nhưng lúc nào xe cộ cũng chen lấn, tai nạn thì xảy ra thường xuyên. Việt Nam, đất nước mà nhân nghĩa đạo lý con người chưa bao giờ được nói đến, mà người dân chỉ toàn là nói đến những chuyện “cung đình” và “Hùng Dũng Sang Trọng” bây giờ như thế nào (Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng). Khi người dân lúc nào cũng lo sợ sự bành trướng từ Trung Quốc, thì làm sao an tâm làm ăn được.

    Đối với hai vợ chồng người Singapore đây cũng là chuyến đi “Xe Đò Hoàng” đầu tiên, cả hai đều không có ý kiến gì, nhưng lúc nào cũng trầm trồ khen rằng hệ thống “Xe Đò Hoàng” tốt, giống như đi máy bay, có chỗ gác chân, có chỗ để hành lý, dù không có hiện đại xài script card giống như hệ thống xe điện ngầm bốn tầng thường gọi là MRT (Mass Rapid Transit) ở Singapore. Tuy không cùng chung ngôn ngữ, nhưng hai ông bà rất vui vì thái độ thân thiện của tất cả hành khách người Việt trên xe. Mặc dù không sang trọng như hệ thống MRT ở Singapore, nhưng tinh thần phục vụ chu đáo là niềm vui trọn vẹn của ông bà trong xuốt chuyến đi.
Không giống như hai vợ chồng người Singapore, ông bà người Pháp thì lúc nào cũng ôm hành lý vào người mình, ảo tưởng về tệ nạn cướp giật giống như ở Paris. Còn anh thanh niên họa sĩ người Nigerian thì kể rằng lúc du lịch ở Việt Nam vào thành phố Huế, Iphone và cái bóp của anh ta đã không cánh mà bay, mặc dù anh cũng rất thích cảnh đẹp thơ mộng của thành phố này. Trong đầu tôi liền “xuất khẩu thành thơ” hai câu thơ về Huế: “Huế mộng, Huế mơ, Huế lơ mơ mất cái bóp”. Ôi! một nỗi buồn cho cả một chế độ.
…Cuối cùng tôi cũng không quen nhắc đến “Anh Năm đẹp trai” với đôi nạng gỗ, anh đang mải mê đọc cuốn sách “Principle of General Surgery” bởi tác giả Schwartz tạm dịch là “Nguyên lý của giải phẫu tổng quát”. Anh là một bác sĩ tốt nghiệp trước năm 1975. Lúc đó Sài Gòn chỉ có một trường đại học y, sau này đổi tên là Đại Học Y Dược, vẫn là con đường cũ Hồng Bàng. Sau 1975, gần 700 trường đại học các ngành lớn nhỏ ra đời trên toàn đất nước (đại học công lập, đại học bán công, đại học quốc gia, đại học viện, đại học thành phố). Anh Năm gọi tất cả “đại học” điều là “học đại”, và gia đình nào cũng muốn cho con cái đi du học ở nước ngoài.
Như Bác Sĩ Huỳnh Phước Sang (nickname Anh Tư Sang) một bác sĩ trong nước trên facebook thường nói về tình trạng giáo dục và y tế ở Việt nam “thời buổi này làm gì có lương y từ mẫu như Hải Thượng Lãn Ông nói, lương lậu phong bì thì có”, “lương” thì ít nhưng “lậu” thì nhiều. “Từ mẫu” à!! Bác sĩ làm cho bệnh nhân “từ trần” và đem vứt xác ở Sông Hồng thì có, giống như bác sĩ thẩm mỹ Nguyễn Mạnh Tường ở Hà Nội.

    “Xe Đò Hoàng” rẻ phải đường King Road để tấp vào thành phố San Jose, laptop của tôi viết cho bài này từ từ khép lại. Cuộc chiến 41 năm trước đã kết thúc, chúng ta là những người trước cuộc chiến, và sau cuộc chiến, hiện tại chúng ta đang sống ở đất nước Hoa Kỳ.
Bốn mươi người hành khách trên xe điều có những quá khứ khác nhau, xuất thân từ những mãnh đời khác nhau với những ngôn ngữ khác nhau (tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nigeria) và những nghề nghiệp khác nhau (Cậu Út Du Học-kỹ sư, Chị Tư Cần Thơ-đầu bếp, Bà Hai Địa ốc-thương gia, hai vợ chồng người Singapore-giáo viên dạy học, anh thanh niên người Nigeria-họa sĩ, hai vợ chồng người Pháp-sản xuất rượu vang, tôi và Anh Năm đẹp trai-bác sĩ), mặc dù có nhiều điểm khác nhau, nhưng ai trong mỗi chúng ta điều mong muốn được hạnh phúc.
Ai trong mỗi chúng ta đều có những giấc mơ, ai cũng ao ước sống trong một xã hội công bình, nhân ái. Giấc mơ nào cũng cần có thời gian để đạt đến, cho dù không hoàn hảo, nhưng mọi việc trên đời rồi sẽ đến như chúng ta mong đợi mặc dù nó không đến cùng một lúc, do đó chúng ta nên kiên nhẫn.
Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Rồi đây sẽ có những 40 hành khách khác với những mảnh đời khác nhau cũng trên những chuyến “Xe Đò Hoàng” mỗi ngày, 365 ngày một năm. Và mỗi ngày luôn có những câu chuyện để “Viết về nước Mỹ” như hàng ngày vẫn thấy trên Việt Báo hơn 15 năm qua.

Làng nghề đan đó

Hưng Yên – một miền quê thanh bình với phố Hiến, chùa Nôm và rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Nhiều người biết tới Hưng Yên với đặc sản nhãn lồng, giống gà Đông Tảo hay món Tương Bần tiến vua ngon khó cưỡng… Có một làng nghề truyền thống cũng rất được nhiều du khách tới tham quan đó là làng nghề đan đó hơn 200 năm tuổi tại xã Thủ Sỹ, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

Du khách như lạc vào không gian làng quê cổ kính khi trải nghiệm làng nghề đan đó 200 năm tuổi tại xã Thủ Sỹ, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

Đan đó là công việc chính hàng ngày của những người dân nơi đây, đặc biệt những người cao tuổi có nhiều năm kinh nghiệm và tay nghề cao tạo ra những sản phẩm có độ khó phức tạp và đẹp mắt. Những chiếc đó làm từ tre, nứa là một loại ngư cụ dung để bắt cá có từ xa xưa, ngày nay khi xã hội phát triển đó còn được dùng trong trang trí ứng dụng mỹ thuật hay nội thất. Số lượng xuất khẩu sang nước ngoài ngày càng tăng khiến cho nền kinh tế tại địa phương cũng phát triển nhanh chóng.

Hàng ngày, làng nghề đan đó Thủ Sỹ luôn rôm rả tiếng nói cười của những người làm nghề truyền thống này, đã có cách đây khoảng 2 thế kỷ.

Nhiều du khách lần đầu nghe từ đan đó sẽ thấy lạ. Thành phẩm chiếc đó làm từ tre, nứa là một loại ngư cụ lâu đời, ngày nay chúng còn được ưa chuộng trong trang trí mỹ thuật hay nội thất. Nghe danh đã lâu, nhưng nay nhiếp ảnh gia Khang Chu Long mới có dịp đến trải nghiệm làng nghề đan đó Thủ Sỹ.

Làng Thủ Sỹ có khoảng 500 người làm nghề đan đó, tập trung nhiều ở hai thôn Tất Viên và Nội Lăng.

Hôm nay có dịp cùng theo chân nhiếp ảnh gia Khang Chu Long tới tham quan Làng nghề truyền thống rất đặc biệt này. Địa điểm hôm nay chúng tôi tới cách thành phố Hưng Yên khoảng 7km. Làng Thủ Sỹ có khoảng 500 người làm nghề đan đó, tập trung nhiều ở hai thôn Tất Viên và Nội Lăng. Vật liệu được chọn kỹ lưỡng từ những thân tre, nứa đảm bảo chất lượng.

Đi dạo quanh làng vào những ngày nắng đẹp, bạn sẽ bắt gặp được ở những khoảng sân nhà là những đóa hoa bằng tre nứa vô cùng bắt mắt. Ngoài ra du khách còn có cơ hội để được gặp gỡ với những người dân chất phác, hiếu khách và được nghe họ kể về quá trình làm đó hay những câu chuyện về xóm làng thật gần gũi.

Các cụ ở lành nghề cho biết người thợ phải chọn tre, nứa già mới đan được những chiếc đó bền và đẹp. Kỹ thuật đan đó được xem là một kỳ công, đòi hỏi sự khéo léo và phối hợp nhiều công đoạn. Gia đình mỗi người một việc chia nhau làm, người thì chẻ, người thì vót tre, nứa. Sau khi làm sẵn nguyên liệu các nan tre, nứa thì tiến hành đan. Trong quá trình đan, dễ nhất là đan hom miệng đó, khó nhất là đan cạp, vành miệng và đan kết thúc đuôi đó.

Đó có hình bầu dục, đuôi nhọn, miệng nhỏ tròn, còn nắp miệng là chiếc hom. Một người thợ lành nghề đan hoàn thành chiếc đó mất khoảng 60 phút. Sau đó, chiếc đó được hun trên gác bếp để làm tăng thêm độ bền cho sản phẩm.

Để hoàn thiện một chiếc đó mỗi người thợ phải mất thời gian một đến hai giờ đồng hồ, với những mẫu đặc biệt dành để trang trí nội thất thì phải tốn thời gian và kỹ thuật hơn nhiều. Sau khi đan phần thô xong những chiếc đó được hun trên gác bếp để làm tăng thêm độ bền và màu sắc lên đậm hơn cho sản phẩm. Những chiếc đó hoàn thiện ngoài xuất khẩu ra còn được mang bán tại địa phương và các tỉnh lân cận.

Ghé thăm làng nghề Thủ Sỹ du khách sẽ thực sự bị thuyết phục trước hình ảnh thật giản dị ở miền quê lam lũ những rất đỗi trong trẻo. Hay là cảnh tượng những cụ già, trẻ nhỏ quây quần trước hiên nhà vừa chuyện trò rôm rả vừa đan những chiếc đó tre. Tất cả đều mang đến dư vị bình yên, ấm áp trong lòng mỗi du khách.

Nghề đan đó mang lại nguồn thu nhập chính cho người dân làng Thủ Sỹ. Một chiếc đó trắng thành phẩm được bán khoảng 20.000 – 25.000 đồng/chiếc, còn đó hun khói có màu nâu cánh gián được bán khoảng 30.000 – 40.000 đồng/chiếc. Ngoài sản phẩm là chiếc đó, người dân nơi đây còn đan rọ hay lờ đem đi tiêu thụ ở các huyện Tiên Lữ, Ân Thi, Phù Cừ của tỉnh Hưng Yên và các tỉnh lân cận, để người nông dân đi đồng đặt bắt cua, cá.

Đến bất kì hộ gia đình nào tại làng nghề Thủ Sỹ du khách đều có thể bắt gặp được hình ảnh những người dân ngồi trước sân thoăn thoắt đan những chiếc đó giản dị. Nghe các cụ kể lại ở Thủ Sỹ nhà nào cũng đan đó, đan suốt ngày mà không thấy mệt bởi đó là khoảnh khắc các thành viên trong gia đình được ngồi cùng nhau cười cười nói nói vô cùng vui vẻ.

Nằm cách TP. Hưng Yên gần 7km đi xe ô tô, làng nghề đan đó Thủ Sỹ ngày ngày luôn nhộn nhịp, không chỉ trở thành một địa điểm du lịch làng nghề thú vị mà còn là nơi để các nhiếp ảnh gia trong và ngoài nước đến đây sáng tác ảnh.

Cụ ông miệt mài tận tụy gắn bó với nghề đan đó, hằng ngày vẫn đạp chiếc xe thồ với hàng chùm đó, rọ đem bán.

Khang Chu Long là một nghệ sỹ nhiếp ảnh trẻ tại Hà Nội, anh nổi tiếng với những bộ ảnh độc đáo ở nhiều chủ đề khác nhau. Với mong muốn ghi lại những hình ảnh đẹp, bình dị của con người Việt Nam trên mọi vùng miền để giới thiệu với bạn bè trong và ngoài nước. Được biết trong thời gian tới những tác phẩm của anh cũng được trưng bày tại triển lãm Ảnh đẹp du lịch Hưng Yên 2021.

Ảnh:  Khang Chu Long  
Bài viết: Minh Tuệ  – 14/11/2021

                                                                                    

Những phát minh ‘để đời’ của người Thụy Sĩ.

Nói đến Thụy Sĩ, nhiều người nghĩ ngay đến hệ thống ngân hàng an toàn hàng đầu thế giới và các thương hiệu đồng hồ đắt tiền . Nhưng có lẽ ít ai biết nước này cũng là nơi sản sinh ra những phát minh quan trọng khác .

Ông Walter Düring Orlob và bà mẹ Maria Düring-Keller – Ảnh: DRUGOL.COM

Với bản tính chú trọng thực tế, những phát minh của người Thụy Sĩ đều là những thứ rất thiết thực phục vụ cuộc sống con người. Chúng ta điểm qua một số phát minh đáng chú ý nhất của họ.

Khóa dán Velcro (1941)

Ngày nay khóa dán Velcro hiện diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ những chiếc quai giày, ba lô, túi xách, túi đựng laptop đến máy đo huyết áp, các vật dụng trên máy bay. 

Từ những năm 1960, các phi hành gia của NASA đã xài Velcro để cột giữ những trang bị cần thiết trên bộ đồ phi hành và trong phi thuyền. Một bộ khóa dán Velcro kích cỡ 5cm x 5cm có thể chịu được lực đến 80kg.

Trước khi Velcro ra đời, người ta chỉ dùng các dây buộc, quai móc, nút gài để chằng buộc, cột các đồ vật, thao tác rất lỉnh kỉnh và tốn thời gian. 

Năm 1941, kỹ sư người Thụy Sĩ George de Mestral thường vào rừng săn bắn cùng con chó của mình. Sau những lần đi săn về, ông để ý thấy có rất nhiều hạt cây ngưu bàng bám khá chặt vào quần áo của ông và trên lông con chó. 

Hạt ngưu bàng là nguồn gốc của phát minh khóa dán Velcro – Ảnh: UNREALSIDE.COM

Mestral dùng kính hiển vi để quan sát một hạt cây và phát hiện bên trên bề mặt của nó có rất nhiều cái móc nhỏ li ti. Những cái móc này làm cho hạt bám chặt vào vải cũng như các loại lông động vật.

Mestral nảy sinh ý tưởng chế ra một loại ‘khóa’ tiện dụng thay cho các loại dây, móc khóa đang có. Nhưng cũng phải mất đến 8 năm nghiên cứu, Mestral mới sáng chế ra thứ khóa dán mà ông đặt tên là Velcro. Từ này xuất phát từ chữ ‘velvet’ (nhung) và ‘crochet’ (móc) trong tiếng Pháp.

Dây kéo (1923)

Dây kéo zipper – Ảnh: WIKIPEDIA

Thực ra người Mỹ đã nghĩ ra một mẫu ‘tiền-dây kéo’ và đăng ký sáng chế này vào năm 1851, nhưng mẫu này còn nhiều khiếm khuyết, không tiện dụng và gọn gàng.

Đến năm 1923, một doanh nhân người Mỹ tìm đến gặp ông Martin Winterhalter – một luật sư ở thành phố St. Gallen (Thụy Sĩ) để chào bán sáng chế này. Winterhalter rất nhạy bén, nhận ra tiềm năng thành công của sản phẩm mới nên bỏ ra 10.000 franc để sở hữu bằng sáng chế. 

Ông nghĩ ra cách để làm cho các răng dây kéo khóa vào nhau trơn tru mà chỉ cần dùng lực kéo nhẹ. Và sản phẩm hoàn thiện của Winterhalter chính là loại dây kéo tiện dụng mà chúng ta xài hàng ngày hiện nay.

Hàng năm thế giới tiêu thụ đến 14 tỉ sợi dây kéo các loại, trong đó một nửa là được sản xuất ở Nhật bởi hãng dây kéo nổi tiếng YKK.

Giấy bóng kính cellophane (1912)

Giấy bóng kinh cellophane đã trở thành thứ không thiếu trong cuộc sống hiện nay – Ảnh: UNREALSIDE.COM

Ngày nay, mỗi dịp Giáng sinh và Tết, giấy bóng kính trong suốt dùng để gói quà là thứ không thể thiếu. Đây cũng là sản phẩm chính dùng để bao bọc các loại thực phẩm. 

Nguồn gốc phát minh này đến từ một sự tình cờ: nhà hóa học người Thụy Sĩ Jacques E. Brandenberger khi rót rượu vang đã làm đổ rượu xuống tấm vải trải bàn. Ông nảy ra ý tưởng chế tạo một loại vật liệu có thể chống sự thẩm thấu của các loại dung dịch thay vì hấp thụ nó.

Thoạt đầu, Brandenberger chế tạo một hóa chất gốc cellulose phủ lên bề mặt vải nhưng không thành công vì nó bị tách lớp và làm vải bị cứng lại. Nhưng ông nhận thấy có một lớp màng trong suốt bị bong tróc khỏi bề mặt vải, màng này có tính năng chống thấm rất tốt và tạo sự thẩm mỹ khi dùng để phủ lên đồ vật. 

Từ phát giác này, Brandenberger chế tạo thành công loại màng mỏng trong suốt dùng để bao gói hàng hóa đặt tên là cellophane, kết hợp hai từ cellulose và diaphane (trong suốt), nó là chế phẩm nhựa sinh học vì làm từ cellulose của gỗ. 

Ngày nay, phần lớn màng cellophane được sản xuất từ dầu mỏ với các sản phẩm như PVC (Polyvinyl chloride) và PP (polypropylene).

Màn hình tinh thể lỏng LCD (1970)

Màn hình tinh thể lỏng là phát minh của một hãng dược phẩm Thụy Sĩ

– Ảnh: HARDTOFIND

Người ta có câu ‘chính xác như đồng hồ Thụy Sĩ’ để ca ngợi chất lượng các loại đồng hồ do Thụy Sĩ sản xuất. Không chỉ đồng hồ cơ, Thụy Sĩ cũng sản xuất đồng hồ dùng mạch điện tử có màn hình tinh thể lỏng LCD (Liquid Crystal Display). 

Đây là phát minh năm 1970 của hãng Hoffman-La Roche, sau đó họ chuyển giao kỹ thuật cho hãng Brown, Boveri & Cie để sản xuất màn hình cho các loại đồng hồ và thiết bị khác bán ra khắp thế giới. 

Điều thú vị là Hoffman-La Roche xưa nay không dính dáng gì đến công nghiệp đồng hồ, mà chuyên ngành của họ là sản xuất… dược phẩm và là một tên tuổi lẫy lừng trong làng y dược thế giới.

Kiểu dáng cổ ngỗng của chai dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh (1980)

Kiểu dáng cổ ngỗng rất phổ biến trong các loại chai tẩy rửa toilet – Ảnh: NEWLYSWISSED

Các chai nhựa đựng dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh luôn có phần trên hình cổ ngỗng (các nước dùng tiếng Anh gọi là Toilet Duck), kiểu dáng ngộ nghĩnh này giúp người ta có thể xịt chất tẩy rửa vào mọi ngóc ngách của các thiết bị vệ sinh. 

Đây là phát minh của doanh nhân Walter Düring Orlob. Bà mẹ Maria Düring-Keller của ông cũng là người sáng chế ra Durgol – loại dung dịch dùng tẩy chất calci bị vôi hóa hiện được dùng rất phổ biến trên thế giới.

Phông chữ Helvetica (1957)

Phông chữ Helvetica – NEWLYSWISSED

Hiện nay, phông chữ Helvetica được dùng rất phổ biến ở những nước sử dụng hệ thống ký tự Latinh, đặc biệt là trong báo chí, sách in, các trang web, cũng như không thể thiếu trong bộ phông chữ của máy vi tính. 

Đây là phát minh của hai nhà thiết kế mỹ thuật người Thụy Sĩ Max Miedinger và Eduard Hoffmann vào năm 1957.

Cà phê hòa tan uống liền (1936)

Trước năm 1936, thế giới chưa có loại cà phê hòa tan uống liền (instant coffee) như hiện nay. Việc thưởng thức cà phê thời đó tốn nhiều thời gian với việc đun nước, cho cà phê bột vào phin, chờ cà phê rỏ xuống đầy tách, cho đường vào… 

Năm 1929, một khối lượng rất lớn cà phê hạt thu hoạch được ở Brazil – quốc gia trồng cà phê nhiều nhất thế giới thời đó – không bán được sang thị trường tiêu thụ chính  là Mỹ vì nước này đang lâm vào cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. 

Do hạt cà phê không thể giữ được lâu nên Viện nghiên cứu cà phê Brazil đã liên lạc với hãng chế biến thực phẩm Nestlé của Thụy Sĩ nhờ hãng này nghiên cứu phương thức sản xuất một loại cà phê có thể hòa tan và bảo quản lâu dài để cứu ngành cà phê đang suy thoái.

Dù mất đến 5 năm nghiên cứu, các kỹ sư của Nestlé vẫn thất bại vì loại cà phê hòa tan trong nước của họ không giữ được hương vị đặc trưng của cà phê truyền thống. Nestlé đành bỏ cuộc nhưng một chuyên viên hóa học của họ, ông Max Morgenthaler, vẫn âm thầm theo đuổi việc nghiên cứu bằng tiền túi của mình. 

Năm 1936, Morgenthaler đã thành công và chuyển giao bí quyết chế biến cho Nestlé và đến ngày 1-4-1938, loại cà phê hòa tan đầu tiên của thế giới mang thương hiệu Nestlé được tung ra thị trường và thành công rực rỡ.

Khách Sạn 22

Tôi có cô bạn học GL ở San Jose.Hôm trước có dịp điện thoại tôi hỏi cô :

“Sao mình đọc báo thấy bên Cali có nhiều người VN không có nhà phải sống ngoài đường và xin ăn vậy?”

Bạn tôi nghe tôi hỏi vậy thì giọng nói của cô có vẻ khó chịu ,bạn nói 
“Làm gì có chuyện đó ,báo nói xạo , nước Mỹ làm gì có người vô gia cư ngủ ngoài đường phố . Nếu qua Mỹ mà không có nhà ở phải đi ăn xin thì sao ai cũng muốn đi hết vậy ? Đọc báo phải dùng cái đầu suy nghĩ chớ. Mình chẳng bao giờ thèm đọc báo việt….”

Bây giờ được đọc bài viết nầy. Tuy tác giả có cho biết là câu chuyện và các nhân vật trong truyện đều là hư cấu nhưng đó là do tác giả lấy xúc cảm từ hai bài tin tức của ký giả Mark Emmons đăng trên báo San Jose Mercury News vào cuối tháng Mười và đầu tháng Mười Một, 2013. Có nghĩa là tại San Jose có rất nhiều người sống ngoài đường lắm chứ không phải là báo VN phóng đại chuyện không có nói có.

Tôi không biết tại sao cô bạn tôi lại dấu diếm tôi chuyện đó và có vẻ khó chịu trong giọng nói khi trả lời câu hỏi của tôi? Tôi suy nghĩ hoài sao cô bạn tôi lại bị chạm tự ái cái điều mà ai khi đến Cali cũng đều thấy chứ không phải chỉ biết qua báo chí VN .
Các bạn khác đang ở Cali thấy bài viết dưới đây là đúng hay sai?
BNL

                                                   Khách Sn 22

Khôi An

Truyện này được viết từ những xúc động khi đọc hai bản tin của ký giả Mark Emmons đăng trên báo San Jose Mercury News vào cuối tháng Mười và đầu tháng Mười Một, 2013. Tên nhân vật và chi tiết trong truyện là hư cấu. Người viết trân trọng cám ơn ông Mark Emmons và San Jose Mercury News. Hình từ trang Web của San Jose Mercury News: Những người không nhà đang lên “Khách Sạn 22.”

* * *
Lisa choàng dậy, ngóc đầu nhìn. Xe bus vừa đi qua Palo Alto Highschool, nghĩa là chỉ còn vài phút nữa thì tới trạm. Nó gạt cái chăn mỏng sang một bên, chống tay ngồi dậy. Bên cạnh, Ba vẫn đang ngủ, đầu dựa vào cửa kính, miệng hơi há ra. Trong giấc ngủ mà trông ổng cũng như đang lo lắng chuyện gì, đôi lông mày nhíu lại. Lisa lặng lẽ xếp cái chăn rồi nhét vào túi xách dưới chân.

Đèn trong xe bật sáng, tiếng nói quen thuộc từ chiếc loa tự động phát lên “Xe bus đang vào trạm Palo Alto Transit Center, trạm cuối của tuyến đường 22. Xin mọi người chuẩn bị xuống xe.” Trong khoảnh khắc, trong xe ồn ào hẳn lên với tiếng ngáp, tiếng ho, tiếng lôi kéo hành lý, tiếng càu nhàu. Ba nó dụi mắt lia lịa, gài lại áo ấm rồi khoác mấy túi đồ đạc lên vai. Xe ghé trạm rồi từ từ ngừng lại. Người ta đổ xô ra cửa, Lisa và Ba cũng hòa vào dòng người, xuống xe.

Lisa đút hai tay vào túi áo. Tháng Mười rồi, đứng ngoài trời đêm mà không dấu kỹ thì chỉ một lát là hai bàn tay nó lạnh như nước đá. Từ xa, hai con mắt khổng lồ, vàng rực của chuyến xe đi hướng Đông đã hiện ra sau lớp sương mỏng. Lisa thở phào, nó sắp được chui vào trong xe ấm áp…

Chuyến xe về Eastridge Mall cũng gần đầy người. Như thường lệ, hai ba con Lisa nhanh chân giành được băng ghế cuối. Nó ngồi sát cửa sổ, nhìn ra ngoài. Con đường El Camino Real ở khúc này là đẹp nhất vì đi ngang qua thành phố Palo Alto, nơi nó nghe nói rằng chỉ có những người giàu kinh khủng mới có nhà ở đó. Xe đang đi dọc theo khoảng đất rộng hút mắt với những cây thông thật cao, dọc hàng rào có treo những tấm hình rực rỡ về trường đại học Stanford. Cái trường này nó biết vì mùa hè rồi trong những ngày trời nắng ấm hai ba con nó có lang thang đi bộ từ bến xe bus vô đó. Nó mê cái bãi cỏ mênh mông, xanh rờn ở phía trước tòa nhà mái đỏ ngay giữa trường, nhìn xéo qua ngọn tháp cao có cái nóc tròn trông giống như cây viết khổng lồ. Nằm ở đó nhìn lên thì trời xanh biếc, cây xanh nõn nà, nhìn chung quanh thì ai cũng tươi tốt, mạnh khỏe, tự tin. Nó nghĩ cảnh đó chắc giống như ở thiên đàng. Nó mê bãi cỏ đó đến nỗi có lần buột miệng hỏi “Ba ơi, nữa lớn con xin vô học trường này, được không Ba?” Ba nhìn nó, miệng há ra mà không nói được tiếng nào, một lát sau ổng mới thốt nên lời “Ờ…ờ…được chứ con… Con ráng hết sức thì… chắc được…” Nghe nói vậy nhưng nó không tin tưởng lắm vì điệu bộ của Ba nó giống y hệt như lần nó hỏi “Ba ơi chừng nào Mẹ về? “. Chỉ khác là hồi đó nó mới sáu tuổi và chưa hiểu “chết” nghĩa là không bao giờ về nữa.

Áp trán vào khung kính lạnh buốt và nhớ lại, nó nghĩ là muốn vô trường Stanford thì nó phải có cây đũa thần. Mà cũng chưa chắc, vì nếu cây đũa chỉ cho một điều ước thì nó sẽ ước cha con nó có một nơi để ở. Nó rất sợ thời gian ngủ lang thang trên mấy băng ghế lạnh ngắt trong những công viên tối thui. Có những đêm trời mưa lâm râm, hai ba con nó nằm ngược đầu đuôi trên băng ghế, đắp chung tấm nylon. Tiếng mưa lơi lộp độp trên nylon làm nó không ngủ được, thêm nữa nó cứ sợ ngủ quên mà trời mưa lớn thì ướt hết sách vở ở trong cái backpack gối dưới đầu. Sau mấy đêm như vậy, giờ hễ thấy trời âm u chuyển mưa là hai lòng bàn chân nó tự nhiên lạnh ngắt.

Cũng may mà hai cha con nó khám phá ra Khách Sạn 22.

Đó là cái tên mà những người không nhà đặt cho tuyến xe bus số 22.

Buổi chiều hôm đó, Lisa cứ nấn ná trên bãi cỏ xanh của trường Stanford nên tới hơn 8 giờ tối mới lên xe bus 22. Hai cha con định đi về khu phía Đông San Jose kiếm chỗ ngủ để ngày mai Ba còn đi xin việc làm ở mấy cái chợ Á châu gần đó. Lên xe, nó ngờ ngợ vì thấy xe đông hơn hẳn những chuyến bình thường, và ai cũng mang nhiều đồ đạc. Một bà ngồi ở băng ghế trước còn có cả một cái xe đẩy chất túi xách, chăn mền. Hơn hai tiếng sau, xe ghé trạm cuối ở Eastridge Mall, nó thấy phần đông khách trên xe lại xếp hàng chờ chuyến xe đi ngược lại. Lúc đó, hai ba con nó mới hỏi thăm và biết là có ba chiếc xe bus chạy vòng vòng trên tuyến đường này cho tới sáng. Từ ngày đó, hai cha con nó gia nhập Khách Sạn 22.

Đây là tuyến xe duy nhất chạy suốt ngày đêm của quận hạt Santa Clara, cũng là tuyến đông khách nhất và chạy con đường dài nhất. Bắt đầu từ Eastridge Mall ở phía Đông thành phố San Jose xe chạy qua đường Tully, quẹo trái đường King, dọc theo đường Santa Clara qua downtown San Jose, nối qua đường Alameda, lên El Camino Real, chạy qua ba thành phố Santa Clara, Sunnyvale, Mountain View trước khi vào thành phố Palo Alto rồi ghé vô trạm chót.

Bây giờ thì Lisa rành lắm rồi. Nó biết rõ đi một chuyến xe thì phải trả hai đô la. Nhưng hầu hết những người trên Khách Sạn 22 đều dùng vé tháng, mỗi tháng bảy chục đô la. Valley Transportation Authority của quận hạt Santa Clara, mà mọi người gọi là VTA, thỉnh thoảng còn cho những người không nhà hoặc những người sắp mất chỗ ở một tấm vé dùng được trong ba tháng. Mấy tấm vé miễn phí đó cũng hiếm hoi như một chỗ ngủ trong những nhà tạm trú (homeless shelter). Dù sao, chỉ tốn bảy mươi đô la mà có phương tiện đi lại và chỗ ngủ trong cả một tháng dài, đối với cha con nó lúc này, là một sự may mắn và vô cùng quan trọng.
*
Dù đã lang thang không nhà gần năm tháng, Lisa vẫn không nghĩ hai cha con nó là người homeless. Nó thấy chữ “homeless” nghe buồn bã quá, và chỉ hợp với những người chấp nhận là từ nay về sau họ sẽ không có nhà ở nữa. Ba con nó là những người “between homes”, nghĩa là đang kiếm chỗ ở.

Hồi xưa, lúc còn Mẹ, gia đình nó cũng có “home” trong một khu chung cư rất dễ thương, ở gần cái công viên thật rộng. Cuối tuần Ba tập cho nó chạy xe đạp còn Mẹ thì trải khăn trên thảm cỏ xanh rờn và nướng thịt bay mùi thơm phức. Tới giờ thỉnh thoảng nó vẫn còn nằm mơ thấy Mẹ cười thật tươi dưới tàn lá xanh lấp loáng ánh nắng công viên, và khi tỉnh dậy nó gần như chắc chắn là trong mơ nó đã ngửi thấy mùi thịt nướng.

Ngày đầu tiên nó vô lớp Một, Mẹ nó còn dắt nó đi học, còn đứng lấp ló ngó chừng, khi thấy nó không khóc Mẹ mới đi làm. Ngày Giáng Sinh năm đó nó còn vẽ tấm hình có nó, Ba, và Mẹ đánh son đỏ chót thiệt là đẹp. Vậy mà chỉ vài tháng sau Mẹ vô nhà thương. Bữa cô Cindy, em của Ba, hớt hải chạy vô xin cho nó về thăm Mẹ, cô giáo nắm tay nó và nói “Poor baby” (tội nghiệp cưng). Đó là lần đầu tiên nó thấy Ba khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Và đó cũng là lần chót Mẹ mở mắt ra nhìn nó.

Sau đó Ba con nó dọn về ở chung với cô Cindy và chú Ben. Những chuyện xảy ra trong vài năm sau khi Mẹ mất, Lisa chỉ nhớ lác đác, tựa như đầu óc nó lạc trong một giấc ngủ dài sau khi Mẹ ra đi. Nhưng những chuyện gì đã nhớ thì nó nhớ rõ, thí dụ như là nó mới vô lớp Bốn thì Ba bị đau lưng. Chú Ben nói tại Ba làm cực, khiêng nặng mà không đeo thắt lưng bảo vệ. Ba bịnh chưa hết thì chú Ben mất việc làm. Ngày chú tìm được việc làm ở xa, hai cô chú và mấy đứa con phải dọn đi. Cô Cindy ôm hôn nó và nói “Con ráng ngoan nha”. Giọng cổ nghẹn ở mũi, nó nghĩ cổ nói vậy để khỏi khóc chứ ở chung mấy năm trời, cổ biết lúc nào nó chẳng ngoan.

Từ đó, hai cha con dọn một qua căn phòng nhỏ xíu. Ba vẫn đau lưng rề rề. Ba thuờng phải nghỉ làm, nằm một mình trong căn phòng đóng cửa tối mờ. Một ngày kia đi học về nó thấy trước nhà dán một phong thư. Đem vô đưa Ba coi, Ba không nói tiếng nào. Mãi đến khi ăn xong bữa tối Ba mới lấy thùng dọn đồ đạc vô và nói mình không có trả tiền nhà tháng rồi, chủ nhà gởi thư bắt dọn đi.

Bữa đầu hai cha con tới Commercial Street Inn ở San Jose. Sau khi đứng chờ ở một hàng dài, tới phiên hai cha con nó, cô thư ký lắc đầu:

– Ở đây là nơi tạm trú của các bà mẹ có con nhỏ.

Ba nó nài nỉ:

– Con tôi cũng nhỏ nhưng mẹ nó chết rồi. Cô làm ơn!

Cô ta vẫn lắc đầu:

– Mỗi phòng có bốn, năm đàn bà, con nít ở chung, làm sao tôi cho ông vô? Mà không có ông, ai chịu trách nhiệm cho con bé?

Thấy cha con nó ngần ngừ, ngơ ngác, không biết đi đâu, cô thư ký thương tình cho nằm đỡ dưới đất ngay trong phòng chờ đêm hôm đó. Hôm sau hai cha con lại dắt nhau đi.

Ba dắt nó vô thư viện coi nhờ Internet và xin tài liệu để đi tìm những shelter (nhà tạm trú) khác. Được bà coi thư viện tốt bụng in ra cho một danh sách các shelter trong quận Santa Clara con Lisa mừng quá. Nhìn thấy tới mười chỗ trong danh sách, nó chắc là cha con nó sẽ tìm được một nơi ở tạm vài tuần. Nhưng coi vậy mà không phải vậy…

Tuần lễ đó, hai cha con nó chỉ được ngủ trong shelter có hai ngày vì ở đâu cũng đầy người, nếu tới sau sáu giờ thì chắc chắn không còn giường trống. Có những shelter chỉ dành riêng cho những người bị bệnh tâm thần, và chỉ có một shelter dành cho gia đình chịu cấp phòng cho cha độc thân và con nhỏ. Có lần nó hỏi tại sao quận Santa Clara có tới hai chỗ cho những người mẹ có con nhỏ mà không có chỗ nào dành cho cha với con nhỏ, cô thư ký suy nghĩ một chút rồi nói:

– Bởi vì hầu hết những người có con nhỏ đến nhờ giúp đỡ đều là đàn bà. Em thông minh lắm, nhưng rất tiếc tôi không giúp được em. Người ta đặt ra những chương trình để phục vụ số đông. Cha con em là trường hợp đặc biệt.

Nó thấy buồn nhưng chỉ nắm tay Ba và trả lời: Vâng, cha của con là người rất đặc biệt.

Chỉ có một câu vậy thôi mà cả hai người lớn, cha nó và cô thư ký, đều chớp mắt như muốn khóc.

Trong mấy tháng cha con nó ngày nào cũng vô thư viện tìm thêm tài liệu về những shelter rồi đi xin khắp nơi. Nhờ đọc nhiều nên nó biết được là cứ mỗi đêm ở trong quận Santa Clara có tới hơn năm ngàn người không nhà cần chỗ ngủ. Mỗi shelter thường chỉ có mấy chục phòng, và có những nơi chỉ mở cửa vào mùa Đông. Hèn gì mà cha con nó thường phải ghi tên chờ tới phiên, có khi cả mấy tuần mới được.

Thời đó, cứ sau bữa ăn trưa là hai cha con lo tìm chỗ ngủ. Đi mấy chuyến xe bus mới tới nơi, người ta hết chỗ, đứng ngẩn ngơ vài phút rồi lại ráng đoán xem chỗ nào còn chỗ, leo lên xe đi tiếp. Rồi đêm xuống, vẫn còn ngoài đường, hai cha con thất thểu dắt nhau kiếm tòa nhà nào có chút mái che và sáng sủa cho đỡ nguy hiểm, rồi ráng quấn chăn cho ấm và ráng ngủ. Có nhiều đêm nó biết Ba sợ cho nó, bắt nó nằm vô sát vách rồi lấy chăn trùm kín mít. Vậy mà khi nó giật mình thức giấc vẫn thấy Ba mở mắt nằm thao thức.
*
Từ khi có Khách Sạn 22 làm nơi trú mỗi đêm, Lisa thấy đời sống của nó khá hơn nhiều.

Lúc đầu nó hơi khó ngủ vì xe cứ chạy rung rung rồi lại thắng ken két. Mỗi lần tới trạm loa phóng thanh còn phát tiếng nhắc nhở làm nó giật mình hoài. Những khi không ngủ được nó ngồi ngắm các hành khách. Lúc đầu khuya còn có những người đi làm ca đêm hoặc đi chơi về trễ. Những người này có vẻ vội vã, họ thường chăm chú bấm lia lịa trên điện thoại di động trong suốt chuyến xe. Qua hai giờ đêm, xe chỉ còn toàn là những người đi xe mà không có chỗ đến như cha con nó. Họ ngồi gật gù trong giấc ngủ chập chờn hoặc nằm co ro trên các băng ghế. Rồi nó cũng từ từ nằm xuống, gối đầu lên chiếc backpack, và thiếp đi.

Sau vài tuần nó đã quen. Nó có thể ngủ say nhưng luôn thức dậy khi xe tới bến chót, rồi lại ngủ tiếp trên chuyến xe ngược lại.

Điều làm Ba nó mừng nhất là trên xe bus an toàn. Về phần nó, nó thích nhất vì Khách Sạn 22 giúp mọi chuyện trở nên đều đặn. Mỗi sáng nó đi xe tới trường học, chiều về đón xe bus tới thư viện ở đường Alum Rock học bài. Tới giờ thư viện đóng cửa thì nó đi bộ qua tiệm Goodwill ngay gần đó. Tiệm này là nơi bán đồ cho người nghèo, những ngày Ba không đi xin việc thì ổng làm không có lương ở đây.

Những người lái xe chuyến 22 đều biết rõ là nhiều người không nhà dùng chiếc xe làm nơi ngủ nhưng họ không làm khó dễ. Chỉ cần những “hành khách đi không bao giờ tới” này tuân theo luật lệ, không ăn uống, hút thuốc, xả rác, hay làm ồn ào trên xe. Ông Tom, một trong những người lái xe, có lần nói:

– Đối với tôi, những người không nhà cũng như mọi hành khách khác. Nếu họ có vé thì họ được đi xe. Thường thường họ đều là người tốt, chỉ đang gặp khó khăn.

Thoát khỏi nổi lo lắng về chỗ ngủ đeo đuổi suốt ngày, Lisa học giỏi hơn trước. Có lẽ nhờ ngày nào cũng học trong thư viện nên năm nay nó đạt nhiều điểm cao nhất. Từ khi khai trường vô lớp Năm, nó thường xuyên được điểm A. Lần đi họp phụ huynh về, Ba nó ôm nó thật chặt rồi nói “Ba thiệt không dám tưởng tượng là con giỏi vậy!”

Bạn bè nó không ai biết là nó không có nhà, có lẽ vì hai cha con nó luôn giữ sạch sẽ, gọn gàng. Ngày nào sau giờ học nó cũng tới một trung tâm sinh hoạt cộng đồng có hồ bơi và phòng tắm cho người đi bơi. Nó hòa vô đám người đó tắm rửa rồi giặt quần áo, vắt khô bỏ vô bịch, sau đó trải một tấm nylon phơi lén ở cái bãi đậu xe đằng sau Goodwill.

Từ hồi tháng Chín, mỗi sáng khi xuống xe ở trạm gần trường, nó đều gặp một cặp vợ chồng với một đứa con trai nhỏ đón xe ở đó. Đứa bé chắc đang học lớp Một, giống như nó thời còn Mẹ. Lần đầu tiên nó nhìn họ từ trên xe bus, bà mẹ đang cúi xuống gài lại áo lạnh cho thằng bé. Không hiểu sao nó thấy cái cử chỉ đó, cái dáng điệu đó, giống in như mẹ nó ngày xưa. Lần đó, sau khi xuống xe, nó chậm bước nhìn họ cho rõ. Từ đó, lần nào gặp họ nó cũng phải nhìn, vừa nhìn vừa thầm mong cái buồn buồn xốn xang trong bụng đừng hiện ra trong con mắt. Có lẽ vì nó nhìn họ hoài, họ cũng nhớ mặt nó. Gần đây, ngày nào hai bên cũng nói Hello chào nhau. Thỉnh thoảng có ngày không gặp họ, nó cảm thấy chút gì như là mong nhớ…

Một đêm cuối tháng Mười, trên Khách Sạn 22 xuất hiện vài khuôn mặt lạ. Họ tự giới thiệu là phóng viên của báo San Jose Mercury News, nghe nói về nơi này và muốn tìm hiểu thêm. Lisa không muốn nhắc đến chuyện không có nhà nên kéo chăn che mặt, làm bộ ngủ. Ba chỉ miễn cưỡng trả lời vài câu hỏi và không đưa tên tuổi gì hết.
*

Lá phong trên hàng cây dọc con đường Alameda đã đổi màu, cửa kính của các nhà hàng đã xuất hiện hình vẽ gà tây bên cạnh những trái bí rợ. Màu cam, màu đỏ của mùa lễ làm Lisa thấy buồn buồn. Cái vui vẻ, ấm áp của người ta làm nó chợt nhớ rằng lâu lắm rồi nó không được nhìn thấy một nồi súp đang bốc khói, trên cái lò cháy đỏ, trong một căn bếp. Nơi mà các gia đình quây quần ăn bữa tối…

…Thứ Bảy, buổi sáng trời nắng ấm. Hai cha con nó xuống xe ở đường Santa Clara rồi đi bộ tới công viên Cesar Chavez. Có một nhóm người đang phát những thức ăn nóng tại đó. Nghe nói có súp đậu, gà nướng, khoai tán, và cả bánh nhân bí đỏ nữa. Những món ăn tuyệt vời, chỉ nghĩ thôi mà đã phát thèm! Nó nắm tay Ba nối đuôi xếp hàng, và háo hức chờ đợi. Chỉ còn năm, bẩy người nữa là tới phiên nó.

Bỗng tim nó thót lại!

Nó vừa nhìn thấy bà-mẹ-của-thằng-bé mà nó gặp hàng ngày đang tươi cười đứng trong đám múc đồ ăn cho đoàn người không nhà. Nó lôi Ba tách khỏi hàng, quay ngoắt đi, vội vàng như chạy trốn. Ba nó vừa rảo bước theo vừa hỏi “Sao vậy? Cái gì vậy? Lisa?” Nó không nói gì, chỉ cắm đầu đi. Qua một khúc quẹo, khi biết chắc là bà ta không thể thấy hai cha con nó, Lisa mới đứng lại. Rồi tự nhiên nó thấy giận. Giận vì mình không có nhà, giận vì mình sợ người ta biết, giận vì mình đã làm Ba mất một bữa ăn ngon. Nó bật khóc nức nở…

– Lisa, con ăn đi!

Tiếng Ba nó nhắc nhở làm nó trở về hiện tại. Nó đang ngồi trong một nhà hàng sang trọng ngay trung tâm thành phố San Jose, đối diện với ông Sam, bà Nancy, và thằng bé Danny (bây giờ nó đã biết tên của họ.) Ánh mắt của bà Nancy thật là vui và ấm áp. Nhưng nó vẫn thấy ngại ngùng, thắc mắc không hiểu tại sao họ cất công mời Ba và nó đi ăn. Không lẽ bà Nancy đã thấy nó bỏ chạy từ đoàn người xếp hàng xin thức ăn hôm nọ, và muốn đền bù cho hai cha con một bữa?

Sáng hôm qua, thứ Sáu, Ba và nó cũng mỉm cười chào gia đình thằng bé như mọi ngày. Bỗng ông Sam tiến tới bắt tay Ba rồi nói:

– Chào ông. Tôi là Sam, đây là vợ tôi, Nancy, và cháu trai Daniel. Chúng ta biết nhau khá lâu rồi, hôm nay tôi muốn được hỏi tên ông và cháu gái.

– Chào ông bà. Tôi là John, con gái tôi là Lisa.

Sau vài câu trao đổi, họ mời cha con nó đi ăn vào ngày mai. Ba nó cũng rất ngạc nhiên, ấp úng từ chối. Nhưng họ thuyết phục mãi, và bây giờ cha con nó đang ngồi đây.

Dù sao những món ăn trên bàn cũng quá hấp dẫn, và vẻ cởi mở, ân cần của hai ông bà cũng không có dấu hiệu gì đáng lo. Lisa bắt đầu cắn vào miếng thịt gà vàng rộm và mỉm cười với thằng bé Danny.

Khi Lisa vét xong muỗng kem tráng miệng cuối cùng, bà Nancy ngồi thẳng lên. Bà nhìn Lisa, rồi nhìn Ba, rồi nói:

– Cách đây hai tuần tôi thấy hình ông và cháu Lisa trên báo San Jose Mercury News.

Lisa nghe máu chạy một cái rần lên mặt. Nó không biết mặt nó đang đỏ bừng hay tái mét. Bên cạnh nó, Ba cũng có vẻ sững sờ. Hai cha con mở to mắt nhìn những người phía bên kia bàn.

Bà Nancy phác một cử chỉ như muốn nắm lấy tay nó. Bà tiếp tục nói, thật dịu dàng:

– Tôi có đưa bài báo đó cho nhà tôi coi. Ổng là giám đốc chương trình của một cơ quan thiện nguyện tên là Dịch Vụ Về Chỗ Ở Vùng Vịnh, và tôi là giáo sư ở trường Đại Học San Jose. Chúng tôi muốn giúp ông và cháu rời khỏi chiếc xe bus 22. Từ đó tới nay, chúng tôi đã gọi cho những người quen biết và tìm được một nơi có thể giúp ông và cháu. Thứ Hai, mời ông tới văn phòng….
*

Bây giờ hai cha con Lisa đã được cấp một căn phòng tại một nơi tạm trú cho các gia đình đang gặp khó khăn. Trong thời gian ở đây, Ba nó được đi học những lớp dạy nghề, và người ta hứa sẽ giúp Ba đi kiếm việc.

Mỗi khi nghĩ lại, Lisa thấy có nhiều việc liên hệ với nhau một cách diệu kỳ. Không biết có phải Mẹ đã đưa đẩy cho nó quen được những người tốt bụng để họ giúp đỡ cha con nó hay không.

Bây giờ ước mơ của nó là khi lớn lên sẽ làm giám đốc chương trình giúp đỡ nhà cửa cho người nghèo, giống như người ân nhân của nó. Khi đó, nó cũng có thể làm điều kỳ diệu cho những đứa bé không nhà khác, những đứa bé mà nó biết là có rất nhiều ở khắp nơi. Nó tin là nó sẽ làm được, chỉ cần ráng học thật giỏi và quyết tâm.

Và Lisa còn học được một điều mới nữa trong thời gian nương náu trên Khách Sạn 22.

Rằng, có những người thật sự có chiếc đũa thần, nhưng khi mới gặp mình không thấy được.

Bởi vì, chiếc đũa đó, họ cất ở trong tim ./.

Khôi An

TÌNH YÊU

Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!

-“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”

Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
-“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”

Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
-“Con chơi, con phải ‘take care’ nó đó!”
-“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
-“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
-“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”

Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
-“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”
Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:

“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!”

Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương, nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.
Bắt đầu từ ngày đó trở đi trong nhà nàng lại có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép trừ lúc có ai trong phòng.

Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy Joshua nói!

Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì rồi thương hại Duy lại thôi.

Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.

Duy la lên:
“Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng ” Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!” Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dậy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.

Vài tháng trôi đi, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!
Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ:
-“Joshua chắc bị “shock” nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!
Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi mà Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao…
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
-“Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?”
– “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”
-“Cháu trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
-“Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
-“Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
-“Cậu con bà có thích con Joshua không?”
-“Chúng tôi quý nó lắm..có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
-“Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
-“Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách.
Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
-“Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
-“Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
-“Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ?

Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.

Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão:
-“Alice Park! Alice ..Park!”

Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn, bạc thếch theo với thời gian! Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí, hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp!
Những đôi mắt u uẩn, hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm! Như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt, mà những ngôn từ; động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây, chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia!!!

Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào, ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
-“Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh:
-“Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong, rồi quẹo trái; đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
-“Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội, làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
-“Nó tên gì vậy bà?”
-“Joshua!”
-“Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú! Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo:
-”Nó thích đàn bà, con gái Mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!
Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng! Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa. Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người, mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất!!!

Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác, theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát.

Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia, mà đã có một lần họ đã sống qua!

Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó, để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô- độc chăng???

Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210.

“À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu, và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.

Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch, và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi!

Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp, mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
-“Love ya, Mama! Love ya, Mama!”

Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy

trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan! Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão, dường như

hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon?

Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run, mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào! Chỉ có đôi mắt chớp khẽ!!! Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc, chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống!!!

Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
-“Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”

Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại! Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được

cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị! Làm như thế gian này, chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất! Không có gì có thể chia lìa!!! Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi, nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên! Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà! Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào, đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được!!!

Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà ta yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
-“I love you too. Joshua! Mama love you!”

Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng, và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang, suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
-“He hurt me!”
Bà ta sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
-“My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore! Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua???”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
-“Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
-“No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
-“No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
-“Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi:
-“Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà, chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi!

Hương thấy ngay điều này, nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
-“Vâng!”

Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai, mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây! Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi, nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.

Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì, mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè, nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó, và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành!

Một đành đoạn chia ly tất nhiên!!! Nàng dựa lưng vào băng ghế, nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu; rồi lìa cành! Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất! Có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống! Có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây, đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất, để tiếc thương thay cho những, chiếc lá đã bỏ đi trước!!! Nhưng có một điều chắc chắn, những chiếc lá  còn lại trên những tàng cây kia; nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa! Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống! Tình yêu! Nỗi chết! Rồi cũng chỉ như thế thôi!!!

Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:-”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy???
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa??? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau! Có nhau! Cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa! Và những ngày kế tiếp, có còn đến nữa hay không!!!

Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: -“2:30 chiều!”

Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về! Joshua phải trở về căn phòng của Duy, và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống! Chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!!!

Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa! Joshua đang đậu trên thành giường! Còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người! Nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn! Trông bà ta có vẻ mệt mỏi!!! Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi, nhìn Hương rồi hỏi:
-“Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
-“Qua con két này!”
-“Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
-“Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
-“Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên, từ lúc gặp gỡ Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:
-“Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa! Mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
-“Joshua!”
-“Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
-“Ồ nó nói được!”
-“Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
-“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
-“Love ya, Mama! Go home!”

Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà.

Hương thấy bà ta nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây, nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó.

Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
-“Go home, baby! You can not stay here.. I have no home now! Go, baby!..Go..”

Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
-“Nó ở lại với bà cụ được không cô?” Cô y tá lắc đầu:
– “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”

Hương lặng im!!!
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice!

Chỉ giữa con két xanh và bà lão!!! Nó bay lên và đậu vào vai Hương, nhưng vẫn kêu lên:
– “Love ya Mama!”
-“I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
-“Cám ơn cô.. đã mang Joshua đến đây! Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì… vui lắm!!!”.

Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice, và nhẹ nhàng nói:
-“Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
-“Cám ơn cô! Cám ơn cô nhiều lắm!!!” .
Nàng đi ra, và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian!!!
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương???

  Mặc Bích

Chuyện Cái Áo Tơi

Báo Thanh Niên – 25/5/2021

Tôi không viết “chiếc áo tơi” mà viết “cái áo tơi” là có lý do của nó.

Nguyên ở quê tôi, một làng nhỏ của Bình Định, cách xa Qui Nhơn hơn 40 cây số. Điện đóm không có mãi cho đến thập niên 60. Ánh sáng văn minh hút bóng, heo hắt, èo uột trên quê tôi. Cả làng không có được một chiếc xe “ bịch- bịch” (xe gắn máy) như cái thị trấn kề bên. Dăm ba nhà có được một cái Radio là hách lắm rồi. Giao tiếp với văn minh ánh điện rất hạn hẹp nên ngôn ngữ cũng rất nghèo nàn. Chữ “cái” giới từ chỉ giống (gender) được sử dụng trong hầu hết mọi trường họp. Thiếu hẳn bóng dáng chữ “chiếc”. Ngoại trừ một vài trường hợp có vẻ đã thành thông lệ như: chiếc chiếu… Tôi viết “cái áo tơi” theo cái ý như vậy. Nghèo khổ thành thêm ra nghèo chữ.

Thời đó cái áo mưa là tiếng để chỉ chiếc áo đi mưa làm bằng nylon, dài quá gối, cổ bẻ, có kèm dây thắt lưng và có cả chiếc mũ trùm đầu, trông rất văn minh, rất nhà giàu. Nhưng vì nghèo và nhất là nó không được ấm và rất dễ rách nên cả làng chỉ có một số rất ít sử dụng nó để đi chợ và mấy đứa học trò con nhà khá giả.

Còn lại dân trong làng đều dùng áo tơi lá. Áo tơi lá được chằm (may) bằng lá cọ.

Người ta lên rừng cắt lá cọ đem về lựa những lá tốt, lành lặn để sử dụng. Áo tơi rất dễ làm nên bất kỳ ai cũng có thể làm được sau một lần quan sát người khác làm. Họ đóng một cái khung chữ nhật, thường bề ngang hai mét, bề cao mét rưỡi. Trên chiều đứng người ta cột dây mây đã được chuốt kỹ lưỡng và ngâm nước đôi ba ngày cho dai và dẻo. Mỗi đường dây cách nhau khoảng từ năm phân (cm) ở phần trên cùng, càng xuống phiá dưới càng cách thưa dần đến khoảng một tấc. Lá cọ trước khi chằm được phơi nắng rồi hứng sương cho lá mềm, dịu và chắc xong họ gấp đôi lá theo chiều gốc xuống ngọn, rồi xỏ vào đường dây mây sẵn trên khung. Ở phần trên sẽ là phần cổ áo nên nó được xếp nhặt lại và bện dây mây bao bọc thật kỹ tránh va chạm dễ bị rách. Phần lá trên cùng được kết xuyên suốt bằng một sợi vải mềm để cột lại khi bận ( mặc). Thường áo tơi lá chỉ dài đến gối để người nông dân dễ hoạt động.

Áo tơi lá được cái tiện là rất ấm. Trời mùa đông, miền Trung mưa dai dẳng suốt ngày đêm, mưa đến thúi đất và lạnh căm căm. Mặc áo tơi làm ruộng hay vào rừng đốn cây làm rẫy là tiện nhất, ngoài che mưa nó còn thêm chức năng làm áo ấm. Người chăn vịt, kẻ chăn bò khi gặp mưa như đổ, cứ việc để dựng đứng cái áo tơi, lấy nón lá ụp lên, ngồi thụp trong lòng áo, thế là có được một không gian trú ẩn khá ấm áp.

Chuyện cái áo tơi cũng kỳ. Kỳ là vì nó cũng có “giai cấp” giàu, nghèo của nó! Nãy giờ tôi trò chuyện với quý bạn chỉ về cái áo tơi của giai cấp nghèo còn cái áo tơi của nhà giàu hay giới quan lại(không có kiệu) là loại áo tơi khác.

Cái áo tơi nhà giàu có hai cánh tay đàng hoàng, gọi là áo tơi cánh. Để chằm loại áo tơi này phải nhiều công đoạn hơn, rắc rối hơn. Đầu tiên người ta chằm một thân sau và hai thân trước rồi chằm hai cánh tay ngắn tới khuỷu tay (dài thì người mặc nó không thể cong tay được). Loại áo này rất ít làm do nó rất khó khăn ở phần ráp nối, tốn công rất nhiều hơn nữa nó cũng rất bất tiện cho sự cử động, cứ đơ ra như người máy. Dần dần áo tơi cánh biến mất khá lâu trước khi cái áo tơi lá đi vào dĩ vãng.

Áo tơi lá có sức bền đến bốn năm năm là chuyện thường, không như chiếc áo mưa nylon chỉ vài tháng là có thể rách te rách tét. Và dĩ nhiên theo thời gian và sự phát triển của xã hội, chúng ta không thể mặc áo tơi lá để cỡi xe gắn máy hay để đi làm trong thời đại này. Áo tơi lá đã đi vào quên lãng. Mãi mãi.

Nhưng chữ “áo tơi” thì chưa chết, nó đã đi vào tục ngữ từ thời nó sinh tồn và còn mãi đến bây giờ. Đấy là câu “nghèo rớt mồng tơi”. Vậy mồng tơi có phải là cây rau mồng tơi xanh mướt dùng để nấu canh với tôm khô không? Thưa không.

Chuyện nghèo rớt mồng tơi ở đây có nguồn gốc từ cái áo tơi vì “mồng tơi” là một phần của áo tơi đó bạn. Số là, ở phần chung quanh cái cổ của áo tơi người ta muốn nó chắc chắn hơn cả vì nó là phần chuyển động nhiều nhất nên dễ rách nhất, cần phải đi nhiều đường chằm bằng cọng mây sát nhau hơn phần dưới của cổ áo đó. Nhưng cọng mây nhuyễn cỡ nào cũng không thể được như sợi chỉ nên nó cũng không thể nằm sát lớp lá ở cổ áo được, đành phải chịu sợi chỉ mây này gồ ghề ngang bỉnh ở đó. Thay vì đường chằn sẽ uốn cong đều đặn thì nó lại nhọn gồ như đỉnh núi hoặc lõm lòi vì mấy cái đốt chai cứng của sợi mây khiến cả vùng chằn ở cổ áo tơi trông sù sì, lộm cộm giống như cái mồng của con gà hay vịt xiêm hoặc như cái bông mồng gà xấu xí.

Rốt cuộc cái chỗ cổ áo tơi được gọi là cái mồng của áo tơi, rồi gọi tắt thành “mồng tơi” cho khỏe. Có người nghèo đến nỗi khi cái áo tơi rách nát, chưa sắm kịp cái áo khác thì cái “mồng tơi” còn sót lại trên vai áo cũng rớt nốt, thì đúng là hình ảnh “nghèo rớt mồng tơi”!

Ái chà! Ban đầu tôi chỉ định viết về cái áo tơi nhằm ghi lại cho các bạn thuộc các thế hệ sau biết thêm một cái áo hiếm hoi đã trôi vào quá khứ nhưng rong ruổi thế nào mà tôi lại rơi vào vó câu chữ nghĩa, cái phạm trù ngôn ngữ ngữ ngôn phức tạp mồng mồng. Thôi chạm một chút rồi rút chân nhưng cũng kịp giúp ai lỡ hiểu “nghèo rớt mồng tơi” là nghèo đến không có lá mồng tơi để nấu canh, là một sự hiểu lầm phổ biến. “Mồng tơi” ở đây chính thị là cái mồng của cái áo tơi chứ không hề là chiếc lá mồng tơi để nấu canh giải nhiệt, hay để làm hàng giậu  chia cách chàng nàng trong thơ Nguyễn Bính.

Than ôi cái tật sa đà của tôi, nói chuyện áo tơi nhưng kết thúc thành ra chuyện nghèo rớt mồng tơi. Thật là rách việc!

Chuyện Bà Già Mang Dép Lào

Khoảng năm 1981, 1982 đời sống giáo viên cực kỳ khó khăn. Tôi quyết định đi xe đạp thồ để có tiền mua sữa cho con. Chiếc xe đạp để đi dạy hàng ngày được bổ sung thêm cái giỏ phía trước và cái yên nệm mút phía sau bạc –ba-ga cho khách ngồi êm đít!

Mỗi sáng cứ 5 giờ là ra đứng ở đầu hẻm trước nhà để chờ khách. Khi trời bắt đầu sáng thì bỏ con hẻm nơi khá gần trường đang dạy, rất dễ gặp học trò, chạy xuống đường Lý Tự Trọng hoặc Trần Cao Vân cách nhà độ 3 km đứng đón khách. Có khách hay không thì 10 giờ 30 phải quay về nấu cơm ăn để chiều …lên lớp.

Một buổi sáng đang bon bon trên đường Trần Cao Vân trước chợ Lầu Đèn, chạy về nhà chuẩn bị đi dạy thì có một bà cụ dáng rất nhà quê đón xe. Vừa mừng vừa lo. Mừng vì được một cuốc xe có thêm tiền. Lo vì sợ khách đi xa không về ăn cơm kịp để 12h30 vào dạy tiết 1.

Tôi phanh xe và hỏi:

– Cụ đi mô.

Bà cụ nói

– Đây xuống bến xe Vĩnh Trung mi lấy mấy?

Thấy bà già nhà quê tôi chợt nhớ mẹ. Tuyến đường lại trùng với lộ trình về nhà của mình nên tôi nói:

– Đúng giá là 1 đồng rưỡi. Còn chừ cụ cho mấy cũng được, cụ không có tiền thì con chở giúp cụ một đoạn, con đang trên đường về.

Bà cụ cười dơ hàm răng chỉ còn toàn … lợi và nói:

– Thằng ni đi thồ mà nói nghe vui hỉ!

Nói xong bà cụ cúi xuống cầm đôi dép lào đã mòn lín. Hai cái gót đã thủng hai lỗ lớn bằng đồng bạc cào lưng. Cụ bỏ đôi dép vào giỏ xe của tôi và nói:

– Xuống bến xe mi nhớ nhắc tau lấy đôi dép ni chớ không phải mi đợi tau quên rồi lấy luôn nghe chưa!

Tôi cười và bảo:

– Cụ yên tâm. Con không mang dép bằng tay nên không lấy đôi dép ni mô!

Lên xe chuyện qua chuyện lại mới biết bà cụ ở Thanh Quýt ra thăm, mang cho con trai đang làm công nhân ở cảng một ang gạo vì nghe nói gạo mua tiêu chuẩn ăn không đủ, bữa nào cũng chỉ lưng bụng mà đi làm. Còn bà thì biết tôi là thầy giáo cấp 3 đi xe thồ thêm ngoài giờ để mua sữa cho con. Nghe hoàn cảnh của nhau, cả hai bà cháu đều im lặng.

Một chặp tôi nghe bà ngồi sau chép miệng rồi nói:

– Răng ai cũng khổ hết trơn ri hè!

Đến bến xe Vĩnh Trung, tôi quay lại dặn:

– Cụ ngồi im, đừng lo, để con tìm xe Vĩnh Điện cho cụ đi. Bến xe đông sợ cụ tìm không ra.

Tìm được xe đi Vĩnh Điện, tôi phanh xe đạp và nói với cụ:

– Cụ nhớ lấy đôi dép. Con chở hộ cụ một đoạn thôi không lấy tiền.

Bà trả lời:

– Thằng ni nói nghe được. Tau không trả tiền xe nhưng chờ tau một xí (tí).

Vừa nói cụ vừa lật lớp áo ngoài rồi mở cây ghim túi áo trong và lấy ra 3 đồng, đưa cho tôi.

Tôi giẫy nẩy:

– Con nói rồi. Con chở dùm không lấy tiền xe.

Cụ bảo:

– Biết rồi. Tau cũng không trả tiền xe. Tau cũng không cho mi. Mi có chưn có tay, có sức dài vai rộng mi làm mi ăn. Tiền ni tau gởi mi đem về mua sữa cho cháu tau. Mi không lấy tau la làng là mi móc túi của tau. Răng. Nhận đi con, cho bà vui.

Nói xong cụ nhét tiền vào túi áo của tôi rồi cắp nách đôi dép lào đã mòn gót leo lên xe.

Lần đó, tôi đứng khóc một mình giữa bến xe Vĩnh Trung đông đúc cho đến khi chuyến xe đò rời bến… chạy khuất!

Bà ơi. Bà đang ở cõi nào?

Nay con có thể viết những quyển sách nhận nhuận bút hàng chục triệu đồng. Đứa cháu nhỏ thời đó nay đã là tiến sĩ làm giảng viên của một trường đại học danh tiếng.

Nhưng có lẽ cho đến lúc chia tay cuộc đời này, con vẫn còn nợ bà … một hộp sữa!

Sài Gòn, 26/5/2017

LÊ THÍ